Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2023

Thơ Của Đỗ Phủ - Bài 63 Và 64

 


THƠ CỦA ĐỖ PHỦ 
Thày Dương Anh Sơn

BÀI 63

VŨ HẦU MIẾU                                                                        武侯廟

Di miếu đan thanh lạc,                                                               遺廟丹青落,
Không sơn thảo mộc trường.                                                     空山草木長。
Do văn từ Hậu chủ,                                                                    猶聞辭後主,
Bất phục ngoa Nam Dương.                                                      不復臥南陽。
(năm 776)

Dịch nghĩa:

Ngôi miếu còn để lại với những nét vẽ màu son đỏ hay xanh đã rơi
rớt tàn phai.
Núi non vắng vẻ ,cây cỏ trải dài xa tít.
Vẫn còn nghe lời từ biệt với Hậu chủ .
Không còn quay trở lại vùng đất Nam Dương để nằm (an nhàn
như trước)

Tạm chuyển lục bát:

MIẾU THỜ VŨ HẦU.

Miếu còn xanh đỏ tàn phai!
Cỏ cây chốn vắng trải dài núi non.
Giã từ Hậu Chủ nghe còn,
Không quay về lại Nam Dương để nằm!

Chú thích:

- Vũ Hầu 武侯: đây là tước do vua nhà Thục bên Trung Hoa là Lưu
Bị phong cho Gia Cát Lượng 諸葛亮 nhờ công lao khôi phục Thục
Hán. Ông có tên tự là Khổng Minh 孔明, hiệu là Ngọa Long 臥龍.
Thuở còn hàn vi, ông sống ở đất Nam Dương (hay còn gọi là
Dương Đô), vùng Long Trung bên T.H, có trái núi tên là Ngọa Long
Cương nên người đời gọi là Ngọa Long tiên sinh. Lưu Bị khi khởi
dựng cơ đồ đã ba lần tới túp nhà tranh nơi đây để mời ông ra
giúp. Nhờ thông đạt kinh sử và hiểu rộng, nhiều mưu kế, ông đã
giúp Lưu Bị trong thời Tam quốc thắng nhiều lần nước Ngô và Tào
Ngụy nên được phong Thừa tướng ,là khai quốc công thần nhà
Thục Hán. Khi Lưu Bị mất ,ông tiếp tục phò Hậu chủ Lưu Thiện
nên được phong là Vũ Hương Hầu 武鄉侯. Người đời sau thường
gọi ông là Vũ Hầu 武侯 hay Gia Cát Vũ Hầu 诸葛武侯 đề tỏ lòng tôn kính.
- miếu 廟: miếu thờ Khổng Minh nằm ở phía tây thành Bạch Đế
(chú thích của Đỗ Phủ: “ Miếu tại Bạch Đề tây giao 廟在白帝西郊).
- đan thanh 丹青: nét thanh tao ,nét vẽ màu son đỏ pha sắc xanh, cũng phiếm chỉ việc sử sách ghi công trạng.
- không 空: trống rỗng, vắng vẻ, khoảng không, hão, hư không, cao
rộng....
- do văn 猶聞: vẫn còn nghe, còn nghe đến, giống như còn....
- từ 辭: nói ra thành văn, từ biệ , từ gi, không nhậ , sai khiến,
cho thôi việc, xin thỉnh, trách móc, thể văn cổ điển như Sở từ của
Khuất Nguyên. Ở đây là lời từ biệt với Hậu chủ Lưu Thiện trước khi
Gia Cát Lượng mất.
- Hậu chủ 後主: vua kế nghiệp, vua sau.
- ngọa Nam Dương 臥南陽: Gia Cát Lượng thuở hàn vi vẫn mơ ước
khi nào công thành danh toại sẽ xin về lại Nam Dương nơi đồiNgọa Long để hưởng nhàn ,nằm khểnh không lo việc gì nữa. Lưu Thiện kém tài nên lúc Khổng Minh mất đi khi đang lo liệu việc quân trong doanh trại, nước Thục rơi vào tay nhà Tấn và Thiệu bị bắt giam

BÀI 64

TẶNG LÝ BẠCH (NHỊ NIÊN KHÁCH ĐÔNG ĐÔ)             贈李白(二年客東都)
Nhị niên khách Đông Đô,                                                          二年客東都,
Sở lịch yếm cơ xảo.                                                                   所歷厭機巧。
Dã nhân đối chiên Ɵnh,                                                             野人對膻腥,
Sơ thực thường bất bão.                                                            蔬食常不飽。
Khởi vô thanh tịnh phạn,                                                           豈無青精飯,
Sử ngã nhan sắc hảo.                                                                 使我顏色好。
Khổ phạp đại dược tư,                                                               苦乏大藥資,
Sơn lâm ơch như tảo.                                                                 山林跡如掃。
Lý hầu kim khuê ngạn,                                                              李侯金閨彥,
Thoát thân sự u thảo.                                                                 脫身事幽討。
Diệc hữu Lương Tống du,                                                         亦有梁宋遊,
Phương kỳ thập dao thảo.                                                          方期拾瑤草。
(năm 744)

Dịch nghĩa:

Hai năm làm kẻ ở trọ ở Đông Đô, từng trải qua và chán ghét những chuyện biến trá ,g iả dối, làm kẻ quê mùa trước sựtanh tưởi hôi hám. Ăn rau cỏ thường không no bụng (1-4).
Há không có miếng cơm sạch sẽ, khiến cho sắc mặt của tatươi tốt lên! Buồn sầu vì thiếu loại thuốc rất tốt để làmcủa .Dấu chân như đã lướt qua bao rừng núi! (5-8).
Lý hầu (tức Lý Bạch),người có tài đức được ở chốn kim khuêtrong triều đình, nay thân đã thoát bỏ lại công việc, đi ở ẩnchốn xa xôi tĩnh lặng. Đã rong chơi vùng nước (trước kia) của Lương và Tống . Hẹn ở chốn có thể gom góp được nhiều loại cỏ tinh tươm đẹp đẽ! (9-12)

Tạm chuyển lục bát:

TẶNG LÝ BẠCH
(HAI NĂM LÀM KHÁCH ĐÔNG ĐÔ)

Đông Đô làm khách hai năm.
Đã từng chán ghét dối gian chuyện đời.
Kẻ quê trước những tanh hôi,
Cỏ rau ăn được thường thời no đâu!
Há không cơm sạch ăn sao?
Khiến cho vẻ mặt sắc màu tốt tươi.
Khổ sầu thuốc tốt thiếu rồi!
Lướt qua rừng núi còn vời dấu chân.
Lý hầu tài đức triều thần!
Bỏ tìm tĩnh lặng thoát thân xa rời.
Đã từng Lương Tống rong chơi,
Cỏ dao gom góp hẹn nơi chốn này.

Chú thích:

** Bài thơ này là bài đầu tiên Đỗ Phủ làm tặng Lý Bạch. Lúc này, Lý
Bạch vừa từ bỏ quan cách để đi ngao du thiên hạ. Còn họ Đỗ vừa mới lập gia đình cất nhà sống ngoài thành Lạc Dương (tức Đông Đô hay Tràng An) là kinh đô của nhà Đường bên Trung Hoa. Lý Bạch giao du thân thiết với thái tử tân khách Hạ Tri Chương. Do ái mộ tài văn chương nổi tiếng của Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士, biệt hiệu của Lý Bạch) nên Chương đề cử lên Đường Minh Hoàng sau việc ông đọc trôi chảy văn bản của người Phiên bên Tây Vực gửi triều đình .Cả triều đình chỉ có Lý Bạch đọc ra và thảo văn bản trả lời (do mẹ ông vốn là người Tây Vực đã dạy ông chữ nghĩa và phong tục Tây Vực từ nhỏ). Vua phong cho ông học hàm tiến sĩ và chức Hàn lâm học sĩ. Ban đầu, vua và Dương Quýphi rất yêu thích cung cách và tài làm thơ của ông. Về sau, tể tướngDương Quốc Trung và Dương Quý phi lại tỏ ra ghét bỏ dèm pha vuaĐường nên họ Lý xin cáo quan đi ngao du sơn thủy....
- khách 客: người được mời đến, người ở trọ hay sống gửi một nơi
nào đó...
- sở lịch 所歷: điều mình đã từng trải , điều mình đã vượt qua, điều
mình rành mạch hay biết rõ ràng...
- yếm cơ xảo 厭機巧: chán ghét lòng biến trá ,giả dối hay xảo trá .
- dã nhân 野人: người quê mùa ,hủ lậu ,người chất phác, thô lỗ... Đây là cách nói hạ mình...
- chiên tinh膻腥: mùi tanh hôi của dê cừu hay thịt sống, mùi tanh
tưởi hôi hám... Đây chỉ chốn cung đình là nơi xảy ra bao chuyện
xấu xa, dơ bẩn, hôi hám....
- sơ thực蔬食: sơ: loại rau hay cỏ có thể ăn được. Ăn các loại rau
cỏ...
- bất bão 不飽: không no bụng ,bụng không đủ no,không làm cho
đầy bụng được...
- khổ phạp 苦乏: vất vả, khó nhọc, buồn sầu do thiếu thốn, nghèo
khổ.
- đại dược 大藥: loại thuốc rất tốt và cần thiết ,loại thuốc quan
trọng và chủ yếu...
- tư 資: làm vốn, của cải, vốn liếng, giúp đỡ, cung cấp, tư chất, tư
cách....
- tích 跡: dấu tích, dấu chân, dấu vết, cong nghiệp tiền nhân lưu
lại...
- tảo 掃: quét, tô trát, lướt qua, tiêu diệt hết, xong hết...
- hầu 侯: tước hầu, đích để thi bắn... Ở đây, có lẽ Đỗ Phủ muốn nói
đến Lý Bạch tuy có chức Hàn Lâm học sĩ song lại thân cận với vua
Đường Minh Hoàng như một hầu tước. Lý Bạch chưa bao giờ có
tước “hầu” và được văn học sử ghi lại!
- kim khuê 金閨: cửa ngách trong triều đình đi vào chỗ các triều
thần sinh hoạt. Chỉ nơi các triều thần tài giỏi ở hay làm việc trong
triều.
- ngạn 彥: kẻ sĩ có tài và đức, người tài giỏi lại đức hạnh...
- thoát 脫: rời bỏ, tháo bỏ, bóc ra, róc xẻ ra, thoát khỏi...
- u thảo 幽討: bỏ đi đến nơi xa xôi, tĩnh lặng để ẩn thân (thảo: bỏ
đi, đòi lại của cải, trừng phạt, dò xét...)
- diệc hữu 亦有: đã từng có...
- phương kỳ 方期: hẹn ở một nơi chốn, hẹn ở một phương...
- thập dao thảo 拾瑤草: thu thập, gom góp các loại cây cỏ quý hiếm
(như ngọc dao; dao còn có nghĩa là tinh sạch, sáng sủa, đẹp đẽ)

(Lần đến: bài 65, 66)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét