THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3: BẮC HÀN TẠP LỤC BÀI 1 VÀ 2
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
Tập 3 : BẮC HÀNH TẠP LỤC 北行雜錄
Bài 1 (hai bài)
THĂNG LONG (Kỳ 1) 昇龍其一
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng, 傘嶺瀘江歲歲同,
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long. 白頭猶得見昇龍.
Thiên niên cự thất thành quan đạo, 千年巨室成官道,
Nhất phiến tân thành một cố cung. 一片新城沒故宮.
Tương thức mỹ nhân khan bão tử, 相識美人看抱子,
Ðồng du hiệp thiếu tẫn thành ông. 同遊俠少盡成翁.
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy, 關心一夜苦無睡,
Ðoản địch thanh thanh minh nguyệt trung. 短笛聲聲明月中.
Dịch nghĩa:
Bao năm trải qua núi Tản sông Lô vẫn cùng nhau như thế, - Khi đầu đã bạc vẫn còn được thấy đất Thăng Long. - Những ngôi nhà to cao ngàn năm tuổi đã thành những con đường cái quan, - Một dải thành mới mẻ đã chôn vùi lấp cung điện xưa cũ. (c.1-4) - Người đẹp quen biết thủa nào thấy có con bồng ẳm, - Bạn bè vui chơi thưở bé trở thành ông hết rồi! - Cả một đêm lòng nghĩ ngợi thao thức không ngủ được, - Tiếng sáo trong đêm trăng sáng vẳng nghe đâu đây.
Tạm chuyển lục bát:
THĂNG LONG (Bài 1)
Bao năm Lô, Tản cùng nhau,
Thăng Long được thấy khi đầu bạc tăm.
Đường thay nhà lớn ngàn năm,
Cung xưa thành mới vùi tan đâu còn.
Người xinh quen bế bồng con,
Bạn chơi thưở nhỏ thành ông hết rồi.
Đêm thao thức chẳng nghỉ ngơi,
Sáng trăng nghe tiếng sáo vời vẳng vang.
Chú thích:
- Thăng Long 昇龍: kinh đô của Đại Việt nước ta ngày xưa, được xây
dựng từ thời Lý Thái Tổ (1010). Khi Gia Long lên ngôi vẫn giữ tên
Thăng Long nhưng với ý nghĩa là sự thịnh vượng. Tuy nhiên hầu như
các nho sĩ trí thức dân gian vẫn quen viết và theo nghĩa là “Rồng bay lên” như cũ.
- Tản Lĩnh, Lô Giang 傘嶺瀘江: tức núi Tản Viên ở Sơn Tây và sông Lô ở Phú Thọ là hai biểu tượng dùng để chỉ chung vùng Bắc Hà.
- bão tử 抱子: bồng bế con còn nhỏ...
- tẫn thành ông 盡成翁: tẫn hay là tận: hết cả. Hết cả, tất cả đều thành ông già...
- tương thức 相識: cùng nhau quen biết, đã cùng quen nhau từ trước.
- quan tâm 關心: mối lo nghĩ, bận bịu trong lòng, lòng thao thức, bận lòng...
- vô thụy 無睡: không ngủ được , không nghỉ ngơi được...
THĂNG LONG (Kỳ 2) 昇龍其二
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành, 古時明月照新城,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh. 猶是昇龍舊帝京.
Cù hạng tứ khai mê cựu tích, 衢巷四開迷舊跡,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh. 管弦一變雜新聲.
Thiên niên phú quí cung tranh đoạt, 千年富貴供爭奪,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh. 早歲親朋半死生.
Thế sự phù trầm hưu thán tức, 世事浮沉休嘆息,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh. 自家頭白亦星星.
Dịch nghĩa:
Vầng trăng sáng của thời xưa cũ chiếu soi tòa thành mới, - Thăng Long đã là kinh đô của các triều vua trước. - Đường xá ngang dọc mở ra xóa mờ các dấu vết cũ, - Tiếng sáo đàn cũng một lần nữa đổi khác lẫn lộn nhiều âm thanh mới mẻ. (c.1-4) - Chuyện sang giàu nghìn năm bày ra việc giành giật, - Bạn bè thưở còn trẻ nửa phần đã chết rồi. - Chuyện đời chìm nổi thôi đừng than thở nữa! Mái đầu của mình từng sợi lần lượt cũng đã đốm bạc.
Tạm chuyển lục bát:
THĂNG LONG (Bài 2)
Trăng xưa thành mới sáng soi,
Thăng Long triều cũ bao đời thành đô.
Dấu xưa đường mở xóa mờ,
Đổi dời tiếng mới lô xô sáo đàn.
Nghìn năm tranh đoạt giàu sang,
Bạn bè thưở nhỏ nửa phần ra đi.
Chuyện đời chìm nổi than gì!
Đầu mình từng sợi tóc thì bạc phai.
Chú thích:
- do thị 猶是: vẫn còn đó, vẫn là, đã là...
- cù hạng 衢巷: đường thông bốn ngã, đường dọc ngang.
- tạp 雜 : hỗn độn, thô tháp, lô xô, lộn xộn...
- cung 供: bày, sắp đặt, cung cấp, dâng hiến, cung phụng...
- tảo tuế 早歲: lúc còn sớm, lúc còn trẻ, thời còn trẻ ...
- bán tử sinh 半死生: nửa còn sống, nửa đã chết.
- hưu 休: thôi, dừng, ngừng lại, nghỉ ngơi, tốt lành...
- thán tức 嘆息: thở dài...
- tinh tinh 星星: từng sợi tóc, lần lượt, từng cái một....
Bài 2
NGỘ GIA ĐỆ CỰU CA CƠ 遇家弟舊歌姬
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi, 繁華人物亂來非,
Huyền hạc qui lai kỷ cá tri. 玄鶴歸來幾個知.
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển, 紅袖曾聞歌宛轉,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly. 白頭相見哭流離.
Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thuỷ, 覆盆已矣難收水,
Ðoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti. 斷藕傷哉未絕絲.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử, 見說嫁人已三子,
Khả liên do trước khứ thời y. 可憐猶著去時衣.
Dịch nghĩa:
Ở chốn phồn hoa con người và cảnh vật lúc loạn lạc đến đã khác hẳn, - Con chim hạc đen quay trở lại có mấy người đã nhận ra? - Đã từng nghe (nàng) ca hát với giọng lả lướt nhẹ nhàng trong màu áo hồng, - Bây giờ khi đầu đã bạc lại gặp nhau cùng với tiếng khóc nói về nỗi lưu lạc, ly tán. (c.1-4) - Chậu nước đã đổ xuống xong, khó mà thu lại nước! - Ngó sen đãđứt đoạn mà tơ vẫn chưa dứt! - Nghe nói (nàng) đã có chồng với ba con. - Khá thương (cho nàng) vẫn còn mặc chiếc áo thưở trước(của cô đầu (c.5-8)
tạm chuyển lục bát:
GẶP GỠ NGƯỜI HÁT CŨ
Người phồn hoa loạn khác rồi,
Hạc đen trở lại mấy người nhận ra!
Áo hồng lả lướt từng ca,
Gặp nhau đầu bạc chia xa khóc ròng.
Khó thu nước chậu đổ xong,
Ngó sen dẫu đứt vẫn còn tơ vương.
Ba con-nghe nói- có chồng,
Khá thương mặc áo thường khi thuở nào!
Chú thích:
** Bài này có lẽ nói về cô đầu hát được nuôi trong nhà em nhà thơ là Nguyễn Ức (1767) từng được tập ấm chức Hoằng Tín đại phu thời chúa Trịnh vua Lê.
- phồn hoa 繁華: nơi có đông đảo người,nhà cửa và những trang sức,
vật dụng đẹp đẽ.
- nhân vật 人物: con người và cảnh vật ở một nơi nào đó.
- huyền hạc 玄鶴: hạc có lông đen. Nguyễn Du khiêm tốn ví mình như con hạc đen xấu xí, không thích phô trương.
- phi 非: trái hẳn, khác hẳn, trái lại, bên ngoài...
- cá 個: đây, này, cái, trợ từ chỉ định.
- hồng tụ 紅袖 :tay áo màu hồng, chỉ chung về áo các cô ả đào , cô đầu thường mặc.
- ca uyển chuyển 歌宛轉: giọng hát nhẹ nhàng, dịu dàng.
- lưu ly 流離: trôi giạt, ly tán, không nơi ở ổn định.
- phúc bồn 覆盆: nước trong bồn hay chậu đã đổ xuống.
- giá nhân 嫁人: người phụ nữ đã có chồng.
- trước 著: mặc áo quần, khoác áo...
- khứ thời y 去時衣: áo quần thủa trước...
(Lần đến: Bắc Hành Tạp Lục – Bài 3 và 4)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét