Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Thơ Của Tô Đông Pha - Bài 28, 29 Và 30

 


THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 28, 29 VÀ 30
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA

Bài 28

ĐÔNG PHA TUYỆT CÚ                                                           東坡絕句

Vũ tẩy Đông Pha nguyệt sắc thanh,                                           雨洗東坡月色清,
Thị nhân hành tận dã nhân hành.                                               市人行盡野人行。
Mạc hiềm lạc xác pha đầu lộ,                                                    莫嫌犖确坡頭路,
Tự ái khanh nhiên duệ trượng thanh.                                         自愛鏗然曳杖聲。

Dịch nghĩa:

Cơn mưa đã rửa sạch vùng Đông Pha, sắc màu của vầng trăng trong
vắt, - Người nơi phố chợ đã đi hết cả rối, người chốn quê mùa đang đi. – Chớ nghi ngại con đường nơi đỉnh sườn dốc nhấp nhô đá cứng, - Ta yêu tiếng cây gậy dẫn dắt khua vang như thế.

Tạm chuyển lục bát:

ĐÔNG PHA TUYỆT CÚ

Trăng thanh, mưa rửa Đông Pha
Hết tăm dân chợ, quê mùa đang đi!
Đỉnh sườn đá cứng ngại chi,
Ta yêu tiếng gậy dắt đi khua ào!

Chú thích:

- Đông Pha 東坡: tức sườn núi hay sườn đồi ở phía đông. Đây là tên và vị trí của sườn đồi được người vùng này gọi tên là Đông Pha là nơi Tô Thức khi bị biếm trích ra Hoàng Châu (nay là Hà Băc, Trung Hoa). Ông đã xin khai phá để trồng trọt (xem “Đông Pha bát thủ” đã chuyển dịch ở các bài trước, từ bài 20 đến 27). Sau này Tô Thức lấy địa danh này xưng biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ
- tuyệt cú 絕句: còn gọi là tiệt cú, đoạn cú hay tuyệt thi là thể thơ có từ thời nhà Đường bên Trung Hoa. Bài thơ làm có ba vần bằng sẽ gọi là tuyệt cú thể luật; nếu dùng vần trắc không theo niêm luật sẽ gọi là tuyệt cú thể cổ. Hai thể thơ tuyệt cú thông dụng là Ngũ ngôn tuyệt cú và Thất ngôn tuyệt cú hay còn gọi là Ngũ ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn tứ tuyệt (VD: như bài thơ này)
- vũ tẩy 雨洗: nước mưa dội xuống rửa sạch sẽ.
- nguyệt sắc thanh 月色清: màu sắc của vầng trăng trong vắt, sáng ngần (sau cơn mưa)
- thị dân 市人: người sinh sống ở phố chợ ,nơi thị tứ đông người, dân ở chợ...
- hành tận 行盡: đi hết mọi nơi, đi hết cả ( dân chợ không còn ai nữa, vắng bóng thị dân)
- dã nhân 野人: người sống nơi thôn dã quê mùa, người dân bình
thường, người vẫn còn cuộc sống đơn giản, hoang sơ... v.v.....
- mạc hiềm: chớ nghi ngờ, đừng ngờ vực, chớ nên nghi ngại...
- lạc 犖: bò có da màu loang lổ, nhấp nhô, lô xô...
- xác 确: trúng đá cứng, cằn cỗi, vững chắc, bền lâu, chính xác...
- khanh nhiên 鏗然: tiếng khua vang, tiếng leng keng hay va chạm, lắc lư, rung rinh đúng như thế (nhiên: đúng thế, như thế, nhưng...)
- duệ 曳: dẫn dắt, lôi kéo, mêt mỏi, rung rinh...

Bài 29

HẢI ĐƯỜNG KỲ NHẤT                                                          海棠期一

Giang Thành địa chướng phiền thảo mộc,                                 江城地瘴蕃草木, 
Chỉ hữu danh hoa khổ u độc.                                                     只有名花苦幽獨.
Yên nhiên nhất tiếu trúc ly gian,                                                嫣然一笑竹離間,
Đào lý mạn sơn tổng thô tục.                                                     桃李漫山總粗俗. 
Dã tri tạo vật hữu thâm ý,                                                          也知造物有深意,
Cố khiển giai nhân tại không cốc.                                             故遣佳人在空谷.
Tự nhiên phú quý xuất thiên tư,                                                 自然富貴出天資,
Bất đãi kim bàn tiến hoa ốc.                                                      不待金盤薦華屋. 
Chu thần đắc tửu vựng sinh kiểm,                                             朱唇得酒暈生臉,
Thúy tụ quyển sa hồng ánh nhục.                                              翠袖卷紗紅映肉.
Lâm thâm vụ ám hiểu quang trì,                                                林深霧暗曉光遅,
Nhật noãn phong khinh xuân thụy túc.                                      日暖風輕春睡足. 
Vũ trung hữu lệ diệc thê thương,                                               雨中有淚亦淒倉,
Nguyệt hạ vô nhân cánh thanh thục.                                          月下無人更清湜.
Tiên sinh bão thực vô nhất sự,                                                   先生飽食無一事,
Tán bộ tiêu dao tự môn phúc.                                                    散歩逍遙自捫腹. 
Bất vấn nhân gia dữ tăng xá ,                                                    不問人家與僧舎,
Trụ trượng xao môn khan tu trúc.                                              柱杖敲門看脩竹.
Hốt phùng tuyệt diễm chiếu suy hủ,                                          忽逢絶艷照衰朽,
Thán tức vô ngôn giai bệnh mục.                                              歎息無言揩病目. 
Lậu bang hà xứ đắc thử hoa,                                                      陋邦何處得此花,
Vô nãi hiếu sự di Tây Thục.                                                      無乃好事移西蜀.
Thốn căn thiên lý bất dị đáo,                                                     寸根千里不易到,
Hàm tử phi lai định hồng hộc.                                                   銜子飛來定鴻鴰. 
Thiên nhai lưu lạc đãn khả niệm,                                               天涯流落但可念,
Vị ẩm nhất tôn ca thử khúc.                                                       爲飮一樽歌此曲.
Minh triêu tửu tỉnh quá độc lai,                                                 明朝酒醒過獨來,
Tuyết lạc phân phân na nhẫn xúc.                                              雪落紛紛那忍觸. 

Dịch nghĩa:

Vùng đất Giang Thành khí chướng với nhiều cây cỏ um tùm rậm rạp, - Chỉ có loài hoa có tiếng mới chịu khó sống lặng lẽ đơn độc. – Một nụ cười xinh đẹp đã nở ra giữa hàng rào trúc ngăn cách, - Hoa đào, hoa lý khắp mọi nơi trong núi cả thảy đều thô thiển tầm thường! (c.1-4)
Thế mới biết con tạo đã có cái ý sâu xa! – Khiến cho người đẹp (hoa
hải đường) ở chốn hang hốc vắng vẻ. – Trời đã ban cho cái vẻ sang quý một cách tự nhiên, - Không cần chờ đợi mâm vàng dâng nhà sang trọng! (c.5-8)
Làn môi đỏ hồng được thắm rượu sáng bừng lên vẻ mặt! – Tay áo màu xanh biếc (của tàn lá) cuốn dải lụa hồng mỏng sáng lên da thịt! – Khu rừng sâu sương mù che phủ nên ánh nắng sáng sớm đã chậm trễ! – Ban ngày ấm áp có gió nhẹ ,giấc ngủ xuân cũng đủ giấc. (c.9-12)
Trong cơn mưa, có những giọt lệ nữa làm cho buồn bã, đau thương! -
Trăng tỏa xuống, vắng bóng người càng thêm vẻ trong sáng yêu kiều. – Tiên sinh ăn no bụng không có việc gì làm! – Đi tản bộ nhàn nhã thong dong, tự vỗ vào bụng của mình! (c.13-16)
Không hề hỏi nhà của người nào hay nhà của các sư tăng, - Chống
gậy rồi gõ cửa, ngắm xem những cây trúc dài và cao. – Chợt bắt gặp một vẻ đẹp tuyệt vời sáng lên chiếu soi vào sự suy yếu, tàn tạ! – Than thở, chẳng nói lời nào, xoa con mắt nhòa bệnh. (c.17-20)
Vì sao một vùng đất thô lậu quê mùa lại có được thứ hoa này!? -
Không lẽ do người thường bày vẽ sinh chuyện dời nó từ Tây thục đến đây?? – Tấc rễ ngắn ngủi của nó không dễ gì đem từ ngàn dặm xa xăm! – (Hay là) hạt giống của nó do chim hồng hộc ngậm bay dừng nghỉ nơi đây? (c.21-24)
Lưu lạc đến chân trời xa này những chỉ có thể để cho niềm nhung nhớ, - Hãy uống một chén rượu (vì nó) và hãy hát khúc ca này! – Sáng hôm sau tỉnh rượu, qua đây một mình, - Tuyết rơi hỗn loạn cũng không nỡ chạm vào (bông hoa) (c.24-28)

Tạm chuyển lục bát:

HOA HẢI ĐƯỜNG.

Giang Thành đất chướng rậm cây,
Chỉ hoa có tiếng chịu rày lẻ loi.
Giữa hàng rào trúc hé cười,
Khắp non đào mận thảy loài thường thay!
Ý sâu con tạo mới hay!
Người xinh lặng lẽ chốn này ở hang.
Quý sang cũng bởi trời ban,
Nhà sang chẳng đợi mâm vàng đem dâng.
Môi hồng ,rượu thắm mặt bừng,
Cuốn tay lụa biếc sáng hồng thịt da!
Rừng sâu chậm nắng mù sa,
Ấm trời gió nhẹ đủ là giấc xuân.
Trong mưa đẫm lệ buồn dâng,
Dưới trăng người vắng, lắng trong đẹp vời!
Tiên sinh không việc no rồi!
Bụng xoa,thả bộ thảnh thơi vui nhàn.
Hỏi chi chùa viện ,nhà dân,
Ngắm tre chống gậy gõ rang cửa nhà!
Soi tàn, bỗng gặp xinh là!
Thở than chẳng nói,mắt nhòa dụi nhay.
Đất quê sao có hoa này?
Phải người Tây Thục vẽ bày dời đi?
Dặm ngàn tấc rễ dễ gì!
Hạt hồng hộc ngậm bay đi nghỉ dừng?
Chân trời lưu lạc nhớ thương,
Một ly hãy uống hát vang khúc này!
Một mình sáng tỉnh qua đây,
Tuyết không nỡ chạm dẫu bay loạn ào!

Chú thích:

** Bài thơ này được Tô Thức làm khi bị biếm trích đến Hoàng Châu khi gia đình còn ở Nam Đô chỉ có người con trai lớn đi theo ông. Khi tạm trú tại chùa Định Huệ, ông tình cờ phát hiện dáng vẻ tuyệt đẹp sang trọng của hoa Hải đường giữa vùng cây cỏ khắp chốn hoặc nơi hang hốc lặng lẽ cạnh bên nhiều loài hoa thô tháp tầm thường.
Với tài làm thơ cùng những cảm nhận mang dấu ấn của riêng mình, ông đã ca ngợi cái đẹp của hoa Hải đường như một nàng con gái kiều diễm nhưng thanh tao sống thầm lặng giữa phía đông chùa. Suốt bài thơ, ông không hề nói đến tên loài hoa nhưng hình ảnh rất xinh đẹp của hoa, qua cách mô tả đầy cảm hứng của ông,khiến chúng ta thấy Hải đường như một nàng con gái thanh tú và kiều diễm bừng sáng giữa nơi xa xôi này. Đó là người bạn tri kỷ ở chốn xa xôi hoang dã chia xẻ số phận lênh khi bị biếm trích. Có hai bài thơ về hoa Hải đường được Tô Thức sáng tác được biết đến là hai bài đang trích dịch. Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh đã có câu thơ đề cập hoa này: “Hải đường lã ngọn đông lân, Giọt xuân treo nặng cành xuân la đà” (c.175,176) và “Hải đường mơn mởn cành tơ” (c.1283)
Hoa hải đường kép và hải đường đơn của các vùng miền bắc và miền trung Việt Nam (nguồn: WikiCAYCANH)
- hải đường 海棠: tên La tinh: Malus spectabilis, cây có thân lớn, hoa màu hồng hay đỏ rất xinh đẹp nhưng không có mùi thơm.
- Giang Thành 江城: vùng đất phía nam Trường Giang, Trung Hoa.
- địa chướng 地瘴: vùng đất có nhiều khí độc hại của nơi rừng núi rậm rạp.
- phiền 蕃: cỏ tươi tốt , sum suê , um tùm,sinh sôi (khác với phồn 繁:
đông đúc, nhiều...)
- danh hoa 名花: loài hoa có tiếng.
- khổ 苦: cực nhọc, chịu khó, cố hết sức, lo quá, rất, mãi.
- u độc 幽獨: âm thầm lặng lẽ một mình, lẻ loi.
- yên nhiên 嫣然: cười hé môi, vẻ cười xinh xắn, cười nụ với dáng xinh đẹp...
- trúc ly gian 竹離間: hàng tre ngăn cách ở giữa, hàng rào làm bằng tre hay trúc để ngăn chia...
- man 漫: khắp nơi, mọi nơi...
- tổng thô tục 總粗俗: gom lại hay gộp lại đều thô thiển tầm thường...
- dã tri tạo vật 也知造物: có lẽ cái biết của con tạo hay trời đất... Người xưa cho rằng những hiện tượng hay qui luật tác động lên vạn vật là do ông trời cao xa, rộng khắp làm ra ,dân gian thường gọi là con tạo, tạo vật hay là ông trời...
- không cốc 空谷: nơi hang hốc vắng vẻ...
- phú quý xuất thiên tư 貴出天資: sự giàu có và vẻ sang cả đều xuất phát bởi sự ban tặng hay giúp đỡ của ông trời...
- hoa ốc 華屋: nhà đẹp lộng lẫy, sang trọng và giàu có...
- chu thần 朱唇: làn môi màu đỏ...
- vựng 暈: hào quang tỏa sáng bao quanh mặt trăng hay mặt trời...
- kiểm 臉: sắc mặt ,má con người hay loài vật...
- thúy tụ quyển sa 翠袖卷紗: tay áo màu xanh biếc bằng loại lụa hồng
- hồng ánh nhục 紅映肉: màu hồng tươi, sáng lên trên da thịt...
- hiểu quang 曉光: ánh sáng của buổi sớm mai...
- xuân thụy túc 春睡足: giấc ngủ mùa xuân đầy đặn hay được ngủ ngon giấc...
- thê thương 淒忄倉: thê lương,hiu quanh, lạnh lẽo và sầu thương
(thương: 忄倉: buồn bã và đau thương...)
- thanh thục 清湜: vừa trong sáng lại xinh đẹp, yêu kiều ...
- bão thực 飽食: ăn no bụng.
- vô nhất sự 無一事: không có một việc nào để làm, hoàn toàn rảnh rỗi...
- tán bộ tiêu dao 散歩逍遙: đi thả bộ với lòng thong dong không bận bịu...
- môn phúc 捫腹: xoa bụng, vỗ bụng...
- xao môn 敲門: gõ cửa, đập vào cửa, đánh vào cửa kêu vang...
- khán tu trúc 看脩竹: nhìn xem cây tre (hay cây trúc) dài và cao...
- tuyệt diễm chiếu suy hủ 絶艷照衰朽: vẻ đẹp thanh thoát tuyệt vời chiếu soi lên sự suy tàn hư nát. [Ở câu này, có hai ý: 1/ chiếu soi lên thân mình ốm yếu gầy gò và hư hao của tác giả. 2/ chiếu soi hàng rào tre (hay trúc) đang tàn tạ hư nát...]
- giai bệnh mục 揩病目: thoa , chùi hay dụi con mắt bị bệnh nhòa để xem cho rõ hơn.
- lậu bang 陋邦: vùng đất, địa phương hay quốc gia còn trong tình trạng thô lậu quê mùa...
- vô nãi 無乃: không lẽ, phải chăng, vô cớ, bỗng dưng... Cách nói tỏ sự nghi ngờ, chưa dám xác định...
- hiếu sự 好事: thích bày vẽ chyện, thường hay sinh chuyện bày vẽ...
- Tây Thục 西蜀: thuộc vùng tây nam Trung Hoa, nay là vùng Tứ Xuyên.
- bất dị đáo 不易到: không dễ gì để đi đến...
- hàm tử 銜子: ngậm hạt giống...
- định 定: dừng, nghỉ lại ở chỗ phù hợp...
- hồng hộc 鴻鴰: loại ngỗng trời bay rất xa và cao, con ngang trống...
- đãn khả niệm 但可念: chỉ có thể nghĩ đến hay nhớ thương...
- vị ẩm 爲飮: vì (hoa) mà uống rượu...
- độc lai 獨來: đi đến một mình.
- lạc phân phân 落紛紛: rơi hỗn loạn, rơi lất phất...
- na nhẫn xúc 那忍觸: không nỡ chạm vào...

Bài 30

HẢI ĐƯỜNG KỲ NHỊ                                                              海棠期二

Đông phong diểu diểu phiếm sùng quang,                                東風裊裊泛崇光,
Hương vụ không mông nguyệt chuyển lang.                             香霧空濛月轉廊。
Chỉ khủng dạ thâm hoa thuỵ khứ,                                              只恐夜深花睡去,
Cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang.                                          故燒高燭照紅妝。

Dịch nghĩa:

Ngọn gió đông thướt tha bồng bềnh với ánh sáng tràn khắp!, - Làn sương thơm ngát rộng khắp bao trùm,vầng trăng quay về phía mái hiên. – Chỉ sợ đêm khuya hoa đã đi vào giấc ngủ, - Cho nên đã đưa cao ngọn đuốc để chiếu sáng màu phấn hồng thắm trang điểm (cho hoa).

Tạm chuyển lục bát:

HẢI ĐƯỜNG (Bài 2)

Gió đông tha thướt sáng tràn,
Sương thơm rộng khắp,trăng dàn mái hiên.
Sợ hoa khuya khoắt ngủ yên,
Đưa cao đuốc sáng tô lên thắm hồng.

Chú thích:

- diểu diểu 裊裊: thanh âm dìu dặt, lả lướt, thướt tha, phất phơ, quay vòng.
- phiếm 泛: tràn ngập, phù phiếm, trôi nổi, bồng bềnh, bàn loanh quanh không vào chủ đề (bàn phiếm)...
- sùng quang 崇光: ánh sáng rực rỡ khắp nơi ...
- không mông 空濛: rộng lớn và bao trùm khắp chốn...
- chuyển 轉: chuyển đi, quay vòng, uyển chuyển...
- chỉ khủng 只恐: chỉ sợ, chỉ sợ hãi...
- hoa thụy khứ 花睡去: bông hoa đã đi vào giấc ngủ, hoa đã ngủ yên...
- thiêu cao chúc 燒高燭: đốt đuốc rồi đưa cao lên soi cho sáng rõ hơn...
- chiếu hồng trang 照紅妝: soi sáng nét trang điểm tô phấn hồng (cho
hoa- cho người đẹp) (hồng trang 紅妝: tô hay thoa phấn hồng lên má
khi trang điềm của người con gái Trung hoa xưa.)

(Lần đến: THƠ TÔ ĐÔNG PHA – Bài 31, 32)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét