Ngay trước khi kim đồng hồ chỉ nữa đêm ngày 28 Tháng Tư, 1955 (ở Sài Gòn là trưa) Tổng Thống Dwight Eisenhower và Ngoại Trưởng Foster Dulles của Mỹ nhận được báo cáo là “giao tranh đã bắt đầu giữa quân đội quốc gia và lực lượng Bình Xuyên.” Hai ông giật mình, quyết định hủy bỏ “Kế Hoạch Collins” nhằm thay thế Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, vội vàng ra lệnh cho tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và Paris ngừng ngay việc sửa soạn thay đổi chính phủ và phải đốt hết các mật điện nói về việc này.” Trước đó chỉ mấy giờ, Washington đã gửi chỉ thị cho xúc tiến việc sắp xếp một chính phủ mới thay chính phủ Diệm.
Năm 1975, nếu những diễn biến trong Tháng Ba dẫn tới một Tháng Tư Đen thì đúng 20 năm trước đó, những biến cố trong Tháng Ba, 1955 cũng đã dẫn tới một Tháng Tư thật đen tối. Cái khác là năm 1955 thì đối với chính phủ Diệm: Tháng Tư đã bắt đầu với tuyệt vọng nhưng lại kết thúc thật sáng sủa. Nếu không thì có thể là đã không có Việt Nam Cộng Hòa. Đó là vì Tướng Paul Ely, tư lệnh quân đội Pháp, đã mạnh tay với ông Diệm để yểm trợ đảo chính cho thành công, giúp Bình Xuyên thắng thế và thành lập chính phủ.
Tháng Ba, 1955 dầu sôi lửa bỏng
Vào thời điểm này, về phía Thủ Tướng Diệm thì ngoài những vấn đề khó khăn đối với Pháp, còn có vấn đề lớn lao nữa là việc định cư gần 1 triệu dân di cư từ ngoài Bắc vào Nam, bất chợt làm tăng dân số miền Nam lên 7%. Khi một số dân được đưa lên khai khẩn các khu dinh điền trên cao nguyên, ông Diệm còn bị chỉ trích là mang người Kinh lên chiếm đất của người Thượng. Nhiều người dị nghị là chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị Bắc Nam và thiên vị người Công Giáo. Như vậy không những tình hình chính trị mà cà tôn giáo tại miền Nam thật rối ren. Vào Tháng Ba, các giáo phái thành lập “Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia.” Quốc Trưởng Bảo Đại ủng hộ Mặt Trận và thông báo cho Mỹ là ông Diệm không còn hữu hiệu nữa. Ngày 21 Tháng Ba, 1950 Mặt Trận tống đạt một tối hậu thư, đòi ông Diệm trong vòng năm ngày phải thành lập chính phủ mới, gồm đại diện của các lực lượng dân chủ đối lập nếu không họ sẽ biểu tình.
Thành lập xong, đại diện Mặt Trận liên lạc ngay với phía Mỹ để yêu cầu ủng hộ việc đòi ông Diệm phải thành lập chính phủ mới. Tại Sài Gòn, Đại Sứ Lawton Collins của Mỹ tuy là chống biểu tình nhưng khuyên ông Diệm phải thương thuyết để dung hòa với Mặt Trận, như vậy “có thể đổi thù thành bạn.” Thoạt đầu, ông Diệm đồng ý, nhưng khi các giáo phái nói là không thể điều đình về những yêu sách của họ, ông Diệm cho ông Collins biết là sẽ dùng vũ lực để giải quyết. Ông Collins không đồng ý, trả lời rằng quân đội sẽ không ủng hộ việc dùng vũ lực và tiếp tục khuyên ông Diệm phải tìm giải pháp ôn hòa.
Một quyết định táo bạo
Cuối Tháng Ba, 1955 bầu không khí Sài Gòn trở nên ngột ngạt sau khi ông Diệm ban hành sắc lệnh tách Cảnh Sát Biệt Khu Thủ Đô ra khỏi hệ thống chỉ huy của ông Lai Văn Sang, tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Không thông báo cho đại sứ Mỹ, ông Diệm bắt đầu xúc tiến kế hoạch truất chức ông Sang và tấn chiếm Trung Tâm Cảnh Sát, dự định cả hai việc sẽ được thi hành vào ngày 29 Tháng Ba. Thế nhưng, chỉ mấy giờ trước khi kế hoạch bắt đầu, Pháp biết được tin này nên đã gấp rút can ngăn ông Diệm, hứa sẽ tìm cách đưa quân đội Bình Xuyên ra khỏi lực luợng cảnh sát. Đại Sứ Lawton Collins cũng đến gặp ông Diệm để phản đối việc dùng vũ lực. “Nếu ngài giải quyết vấn đề bằng cách này,” Collins cảnh cáo. “Ngài sẽ phạm một sự sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của ngài.” Và sai lầm đó sẽ mang tới hậu quả trầm trọng vì “chúng tôi sẽ bị áp lực mạnh mẽ phải ủng hộ việc thay đổi chính phủ ngài.”
Đêm 29 rạng 30 Tháng Ba, giao tranh giữa Bình Xuyên và quân đội quốc gia đã xảy ra, nhưng vào lúc 3 giờ 15 phút sáng, Tướng Paul Ely áp đặt ngay lệnh ngưng chiến. Để biểu dương lực lượng, ông cho xe thiết giáp quần trên đường phố Sài Gòn. Vì đã có giao tranh đến đổ máu và chết chóc, Pháp nhân cơ hội này sắp xếp một kế hoạch toàn bộ để dẹp ông Diệm. Một mặt thì thuyết phục Đại Sứ Collins (cũng là cựu chiến hữu với ông trong Thế Chiến II) để ông này yêu cầu Washington gạt bỏ ông Diệm, mặt khác thì đề nghị Quốc Trưởng Bảo Đại ở Cannes phải có hành động quyết liệt như cất chức ông Diệm, đồng thời ngấm ngầm yểm trợ lực lượng Bình Xuyên.
Pháp đã thành công trong việc thuyết phục Đại Sứ Collins chống Thủ Tướng Diệm. Ngày 9 Tháng Tư, 1955 ông Collins gửi Ngoại Trưởng Dulles một điện văn dài, đề nghị toàn bộ cách giải quyết cuộc khủng hoảng tại Sài Gòn. Đề nghị này gồm hai phần: Sắp xếp việc ông Diệm “từ chức” và thẩm định hậu quả của việc từ chức. Tóm tắt phần một như sau:
Điện văn số 4448
Ngày 9 Tháng Tư, 1955
Việc sắp xếp cho ông Diệm từ chức gồm năm bước:
1-Giải quyết vấn đề rút cảnh sát và công an ra khỏi tay Bình Xuyên;
2-Thuyết phục ông Diệm từ chức;
3-Tìm người thay thế ông Diệm làm thủ tướng;
4-Đi tới một thỏa thuận về giải pháp đối với các giáo phái; và
5-Vận động để các giáo phái chấp nhận giải pháp trên.
Washington chờ xem quân đội có ủng hộ ông Diệm hay không?
Khuyến cáo của đại sứ Mỹ rõ ràng, mạch lạc là như vậy, nhưng tại Washington phản ứng về vụ Bình Xuyên nổ súng thì lại khác. Vào lúc nửa đêm ở Sài Gòn tức là trưa ở Washington, Ngoại Trưởng Dulles nhận được tin này khi ông đang ăn trưa với một số dân biểu lưỡng đảng tại Tòa Bạch Ốc.
“Đây là cơ hội chúng ta đã chờ đợi để tìm hiểu xem ông Diệm có đủ can đảm và quyết tâm hành động không, và cũng để biết được quân đội Việt Nam có trung thành với ông hay không,” ông Dulles nói với các dân biểu. “Nếu chứng tỏ được hai điều này thì chúng ta hết lo. Còn nếu như ông Diệm thất bại một trong hai điểm thì bắt buộc ông phải từ chức. Dù sao chúng ta cũng sẽ có câu trả lời.”
Tổng Thống Eisenhower chỉ thị: “Nếu như ông ấy thất bại thì thật là bết bát, nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu ngay bây giờ hơn là để muộn về sau, xem quân đội quốc gia mà chúng ta tốn phí quá nhiều để phát triển liệu có trung thành với ông ấy hay không.”
Trong hoàn cảnh xáo trộn và trước sự chống đối của ông Collins, Tổng Thống Eisenhower gọi ông đại sứ về Washington để tham khảo. Trước khi đi, ông Collins còn gửi đề nghị cho ông Eisenhower (ngày 19 Tháng Tư, 1955) là “vẫn phải thay thế ông Diệm.” Rồi ông Collins còn đến gặp ông Diệm một lần nữa. Ông báo cáo về Washington là ông đã nói thẳng với ông Diệm rằng chính phủ của ông sẽ không thể tồn tại được ba tháng nữa, và nếu cứ tiếp tục như thế này thì loạn lạc là điều trông thấy. Và vì vậy, “Tôi thêm rằng bắt buộc tôi phải báo cáo cho chính phủ tôi rằng hành động của ngài sẽ dẫn tới một cuộc nội chiến.” Theo ông Collins, ông Diệm đã trả lời rằng mỗi khi ông nhân nhượng và thỏa hiệp thì vấn đề lại trở nên khó khăn hơn.
Vì e ngại ông Diệm lợi dụng lúc ông Collins không có mặt ở Sài Gòn để tấn công Bình Xuyên và đặt Mỹ vào một việc đã rồi nên ông Collins còn căn dặn ông Diệm là “Ngài nên làm bất cứ điều gì có thể để tránh xảy ra một cuộc xung đột trong khi tôi đi vắng.” Ông Diệm nói lảng đi, phàn nàn rằng nếu như ông đã cất chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Lại Văn Sang ngay từ đầu thì bây giờ tình hình tại Sài Gòn đã có thể kiểm soát được rồi.
Chào tạm biệt, ông Collins cho ông Diệm hay là chính Quốc Trưởng Bảo Đại sẽ giải nhiệm ông nếu tình hình này cứ kéo dài. Kết thúc bản báo cáo gửi Washington, ông Collins đề nghị: “Tôi không thấy, nhắc lại là không thấy, một giải pháp nào khác ngoài việc thay thế ông Diệm cho sớm.”
Những giờ phút cam go
Đại Sứ Collins về tới Washington ngày Thứ Năm, 21 Tháng Tư. Ngày hôm sau, ông dùng bữa trưa với Tổng Thống Eisenhower, và sau đó gặp Ngoại Trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc Phòng và Trung Ương Tình Báo để “vận động” chống ông Diệm. Ông nhắc lại quan điểm của ông một cách mãnh liệt và cứng rắn hơn trước là Mỹ phải thay thế ông Diệm và có kế họach hành động ngay tức khắc. Trước áp lực mạnh mẽ của ông Collins, vừa là đặc ủy của tổng thống, vừa là đại sứ, lại là chứng nhân có mặt tại chỗ để nhận xét, nên sau cùng ông đã thắng thế. Ngày 27 Tháng Tư, Ngoại Trưởng Dulles đã đồng ý một cách hết sức lưỡng lự. Ông chấp thuận một mật điện do Bộ Ngoại Giao soạn thảo ra lệnh thay thế Thủ Tướng Diệm. Ông Young viết lại rằng: “Chẳng một ai trong chúng tôi thật sự tin tưởng vào bức điện đó, nhưng chúng tôi phải đối diện với những đề nghị mạnh mẽ của ông Collins và ưu thế của ông là ông đã đến Tòa Bạch Ốc ngay sau ngày ông từ Sài Gòn về tới Washington.”
Mật điện lịch sử ngày 27 Tháng Tư, 1955: Thay thế Thủ Tướng Diệm
Bức điện ngày 27 Tháng Tư, 1955 cho phép sắp xếp thay thế Thủ Tướng Diệm là một văn kiện lịch sử hết sức quan trọng. Nó giống như mật điện ngày 24 Tháng Tám, 1963 vào lúc sắp xếp việc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một, 1963. Sau đây là tóm tắt:
“Tướng Collins và Tướng Ely phải thông báo cho Thủ Tướng Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chinh phủ mới nào được chỉ định.
Chúng tôi tạm đề nghị một tân chính phủ như sau:
1-Nội các: Quyền hành pháp đầy đủ trao cho ông [Trần Văn] Đỗ hoặc [Phan Huy] Quát làm thủ tướng và phó thủ tướng,
2-Một Hội Đồng Tư Vấn khoảng từ 25 đến 35 đại diện các phe nhóm, gồm cả các giáo phái…và
3-Một Quốc Hội Lâm Thời: Một cơ chế gần như một Quốc Hội Lập Pháp, gồm những người đã trù liệu được bầu ra hay chỉ định theo lịch trình…”
Dulles
Bộ Ngoại Giao gửi mật điện đi vào lúc 6 giờ chiều ngày 27 Tháng Tư (giờ Washington). Thế nhưng, khi chỉ thị vừa được gửi đi là tin tức này đã lọt ra ngoài nên ông Diệm biết được và đã hành động kịp thời. Làm sao tin này đã bị rò rỉ thì còn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát.
Những giờ phút quyết liệt cuối Tháng Tư, 1955
Theo tác giả Mark Moyar trong cuốn Triumph Foresaken (xuất bản năm 2006) thì: “Trong mấy giờ đồng hồ hết sức cam go sau khi gửi mật điện này, Washington nhận được rất nhiều điện văn dồn dập do ông Edward Landsdale (CIA) gửi. Trong điện văn đầu, ông Landsdale khẳng định rằng nếu bỏ ông Diệm, uy tín Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương ở Việt Nam tới mức không chính phủ mới nào có thể tồn tại được nữa. Rồi ngay trước khi kim đồng hồ chỉ nữa đêm giờ Washington (Sài Gòn là trưa) ông Landsdale báo cáo là “giao tranh đã bắt đầu giữa quân đội quốc Gia và Bình Xuyên.” Tổng Thống Eisenhower và Ngoại Trưởng Dulles nghe vậy giật mình, quyết định đình chỉ kế hoạch Collins, vội vàng ra lệnh cho Sài Gòn và Paris ngừng hẳn việc sửa soạn thay đổi chính phủ và “phải đốt hết các mật điện nói về việc này.”
Tác giả Joseph Buttinger trong cuốn “Vietnam, A Dragon Embattled” nhận xét: “Trong sự tranh đấu để thu hồi và bảo vệ được quyền bính, ông Diệm đã trải qua nhiều giai đoạn bất trắc và khổ cực. Tuy nhiên, cho dù cả trong những tuần lễ trước cuộc đảo chánh và ám sát ông năm 1963, ông Diệm cũng đã không bị gian lao, cay đắng bằng trong Tháng Tư, 1955.”
May mắn cho Thủ Tướng Diệm trong ngày 30 Tháng Tư, 1955
Trước khi rời Sài Gòn về Washington (ngày 20 Tháng Tư), theo tác giả Mark Mayar trong sách đã viện dẫn, Đại Sứ Collins có nói với Cao Ủy Pháp Ely rằng: “Hoa Kỳ đã quyết định ông Diệm phải từ chức.” Theo thỏa thuận này, ngày 30 Tháng Tư, ông Ely tới gặp quyền Đại Sứ Mỹ Randolph Kidder (khi ông Collins vắng mặt) để yêu cầu Hoa Kỳ cộng tác với Pháp trong việc dẹp ông Diệm. Lúc ấy, ông Kidder không biết chính sách của Washington diễn biến ra sao vì trước khi rời Sài Gòn, ông Collins chỉ nói với ông Kidder là “thượng cấp còn đang bàn định về những kế hoạch mới của Hoa Kỳ tại Việt Nam,” và lúc này ông Collins còn đang bàn bạc, vận động tại Washington. Thế nhưng, vì đã tận mắt thấy ông Diệm đang thành công, ông Kidder trả lời thẳng thừng cho ông Ely: “Không, Hoa Kỳ sẽ không cộng tác trong việc dẹp ông Diệm.” Về sau, ông Kidder kể lay: “Lúc ấy tôi thực không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tự quyết định lấy về chính sách của Hoa Kỳ, vì nếu trả lời là ‘tôi không biết’ thì thật là buồn cười.” Ông Ely vô cùng giận dữ và phản đối, cho rằng Hoa Kỳ đã bội ước, vì chính ông đã nhận được sự đồng ý của Tướng Collins về việc thay thế ông Diệm. Thái độ phẫn nộ của ông Ely cũng giống như lúc ông đã hết sức bất mãn về sự hứa hẹn của Tướng Arthur Radford của Mỹ là sẽ can thiệp vào Điện Biên Phủ, rồi không làm như vậy. Dù ông Ely phản kháng, ông Kidder vẫn giữ nguyên lập trường là Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm chứ không bắt tay với Pháp để dẹp ông.
Rất may cho Thủ Tướng Diệm và còn may hơn nữa cho triển vọng thành lập VNCH. Cũng theo ông Mayar, nếu như trong buổi họp ngày 30 Tháng Tư, ông Kidder nói thật với ông Ely rằng tòa đại sứ thực sự chưa nhận được những hướng dẫn về chính sách của Hoa Kỳ đối với ông Diệm vào lúc ấy (ngoài lệnh hủy công điện ngày 27 Tháng Tư) thì rất có thể ông Ely đã có những biện pháp áp đảo để dẹp ông Diệm hơn là đã nhân nhượng ông. Lực lượng của Pháp ở Sài Gòn lúc ấy còn rất mạnh. Ngoài ra, giả như Đại Sứ Collins không về Washington và có mặt tại buổi họp với ông Ely hôm ấy thì rất có thể là ông Collins đã đồng ý với ông Ely rồi.
Nơi đây chúng tôi xin mở ngoặc để nhắc lại một trường hợp khác nữa về vai trò của viên đại sứ Mỹ. Trước ngày đảo chính 1 Tháng Mười Một, 1963, Đại Sứ Cabot Lodge (người đang sắp xếp cuộc đảo chính) đã sẵn sàng về Washington để tham khảo. Trong trường hợp ấy, Tướng Paul Harkins (người chống đảo chính) đã được chỉ định để thay thế ông Lodge. Nhưng rồi ông Lodge đổi ý vào giờ chót để hoãn lại chuyến đi và ở lại Sài Gòn, cho nên cáctướng lãnh đã tiếp tục đảo chính. Sự việc này cho ta một bài học: Hành động của đại sứ Mỹ có mặt tại chỗ là hết sức quan trọng.
Trở lại sự may mắn của Thủ Tướng Diệm ngày 30 Tháng Mười, 1955, quân đội quốc gia dẹp xong Bình Xuyên ở Rừng Sát. Dư luận và Quốc Hội Hoa Kỳ hân hoan ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Với một thế mạnh ở cả trong và ngoài nước, ngày 26 Tháng Mười, ông tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa và trở thành tổng thống đầu tiên.
Năm năm sau, trong một bức thư gửi Tổng Thống Diệm (1960), Tổng Thống Eisenhower còn nhắc tới sự cương quyết và thành công của ông năm 1955: “Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ thật nhanh chóng.”
Nhìn theo một góc độ tâm linh, ngày 30 Tháng Tư, 1955 cũng là ngày may mắn cho mỗi người trong chúng ta, những người con dân miền Nam Việt Nam, vì nếu như Pháp thành công trong việc cách chức ông Diệm, rồi sau đó đưa một người “phe ta” như ông Bẩy Viễn lên nắm chức thủ tướng để thương thuyết với các phe phái, rồi tiến tới việc thành lập một chính phủ theo mô hình “chính phủ Nam kỳ” năm 1946, thì số phận miền Nam Việt Nam đã ra sao? [đ.d.]
Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng
Người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét