THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3 : BẮC HÀNH TẠP LỤC - BÀI 7, 8 VÀ 9
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 7
TRẤN NAM QUAN 鎮南關
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm, 李陳舊事杳難尋,
Tam bách niên lai trực đáo câm(kim). 三百年來直到今.
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện, 兩國平分孤壘面,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm. 一關雄鎮萬山心.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ, 地偏每為傅聞誤,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm. 天近纔知降澤深.
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu, 帝闕回頭碧雲表,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm. 鈞韶耳畔有餘音.
Dịch nghĩa:
Chuyện đời nhà Lý, nhà Trần xa xôi xưa cũ khó tìm được. - Ba trămnăm về sau thẳng đến ngày nay (cửa ải đã có ở đây rồi)! - Bức tường thành lẻ loi chia đều mặt nhìn của hai nước , - Một cửa ải oai hùng nằm ở giữa trấn giữa muôn ngàn núi non. (c,1-4)
Mỗi vùng đất đã có những lời đồn đoán sai lệch (ở chốn biên giới xa xôi). - Gần với trời mới biết ơn trên ban xuống sâu dày. - Quay đầu nhìn về cung vua đã ở ngoài tầng mây biếc, - Bên tai vẫn còn vang vọng tiếng nhạc thiều. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
TRẤN NAM QUAN
Khó tìm chuyện cũ Lý Trần,
Ba trăm năm đã thẳng lần đến nay.
Chia đều hai nước: lũy này,
Vạn non ải giữa trấn đây oai hùng.
Lệnh truyền sai lệch mỗi vùng,
Mới hay ban xuống trời gần móc mưa.
Quay đầu mây biếc cửa vua,
Nhạc thiều hòa tiếng vẳng lùa bên tai.
Chú thích:
** Đây là một bài thơ đã cho thấy ải Nam Quan là một di tích lịch sử chia đều vùng đất hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã có từ thuở xa xưa thời nhà Lý, nhà Trần và rõ nhất, đến thời Nguyễn Du ải đã xây dựng được ba trăm năm rồi! Bài thơ ra đời khi Tố Như được cử làm Chánh Sứ đi tuế cống nhà Thanh (1813) theo lệnh của vua Gia Long. Khi hiệp ước ký năm 1959 và cuộc chiến tranh với Bắc Kinh (1979) Ải Nam Quan đã lọt vào tay kẻ thù phương bắc. Lãnh thổ từ mấy ngàn năm nay giờ đã bị xâm lấn và cái họa từ bọn bành trướng Trung Hoa cận kề luôn rình rập, đe dọa đất nước của cha ông đã dày công vun đắp.
- yểu 杳: tối tăm, sâu xa, vắng lặng, xa mờ, xa xôi...
- lưỡng quốc bình phân 兩國平分: phân chia đều hai nước. Có nghĩa là ải Nam Quan là mốc giới chung của hai nước Việt Trung từ lâu đời.
- địa thiên 地偏: vùng đất biên giới xa xôi một nước (thiên: nơi xa xôi ở biên giới, lệch không thẳng, khoe khoang).
- ngộ 誤: mê hoặc, sai lệch, lầm lẫn.
- trạch 澤: chỗ nước đọng lại, ơn mưa móc, ân huệ, sáng sủa, tươi tắn.
- đế khuyết 帝闕: cửa ra vào cung vua trên có lầu gác, dưới có cửa....
- biểu 表: mặt ngoài, tỏ rõ ý mình, ở bên ngoài, tiêu biểu.
- quân thiều 鈞韶: nhạc lễ chỉ sự thái hòa tốt đẹp thường được diễn trong triều đình khi có lễ lạc. (quân 鈞: sự điều hòa của muôn vật làm nên sự tốt đẹp, sự an hòa cho con người và muôn vật; đều, cùng, cân bằng...)
BÀI 8
NAM QUAN ĐẠO TRUNG 南關道中
Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan, 玉書捧下五雲端,
Vạn lý đan xa độ Hán quan. 萬里單車渡漢關.
Nhất lộ giai lai duy bạch phát, 一路偕來愯白髮,
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san. 二旬斫見但青山.
Quân ân tự hải hào vô báo, 君恩似海毫無報,
Xuân vũ như cao cốt tự hàn. 春雨如膏骨自寒.
Vượng đạo đãng bình hưu vấn tấn, 王道蕩平休問訊,
Minh Giang bắc thướng thị Trường An. 明江北上是長安.
Dịch nghĩa:
Chiếu thư vua ban từ trên tầng mây năm màu đưa xuống, - Chiếc xe lẻ loi vượt qua cửa ải nhà Hán đi muôn dặm. - Một con đường đi, cùng với mái tóc bạc trắng, - Cả hai mươi ngày chỉ thấy núi non màu xanh. (c,1-4)
Ơn vua như biển không báo đáp chút nhỏ nhoi nào, - Mưa xuân (làm đường đi) trơn như mỡ và sự lạnh lẽo thấm đẫm tận xương. - Con đường đi giờ bằng phẳng và rộng rãi nên thôi hỏi thăm đường, - Hướng lên phía bắc Minh Giang đó là Trường An. (c.5-9)
Tạm chuyển lục bát:
ĐƯỜNG ĐI TỪ NAM QUAN
Mây năm sắc xuống chiếu ban,
Một xe ải Hán dặm ngàn vượt qua.
Đường đi chỉ tóc trắng pha,
Hai mươi ngày thấy núi là xanh tươi.
Ơn vua chẳng báo nhỏ nhoi,
Mưa xuân trơn trợt, lạnh trời thấu xương.
Đường bằng rộng khỏi hỏi đường,
Minh Giang hướng bắc là Trường An đây!
Chú thích:
- ngọc thư 玉書: chiếu thư truyền lệnh của vua.
- phủng 捧: bưng, mang, đem đưa, vua truyền đem chiếu thư xuống cho người thi hành gọi là ngọc thư hay ban chiếu, mang ơn vua được gọi là ban ơn...
- đoan 端: đầu mối, nguyên nhân, ngay chính, thẳng thắng...
- ngũ vân đoan 五雲端: mây năm sắc chỉ nơi vua thiết triều là đầu mối ban ra lệnh.
- đan xa 單車: chiếc xe lẻ loi vì chỉ dành chở một mình quan Chánh sứ...
- Hán quan 漢關: cửa ải nhà Hán nhìn hướng về phía bắc từ giửa ải Nam Quan; phía nam gọi là cửa ải “Nam quan” (xem CT bài 7). Thời Gia Long gọi là Trấn Nam quan, sau này đổi lại là Mục Nam Quan rồi khi bang giao với Bắc Kinh gọi là Hữu Nghị quan.
- tuần 旬: mười ngày gọi là một tuần, mười năm cũng gọi là tuần (tuổi tứ tuần, lục tuần...), đi tuần, khắp nơi.
- đãn 但: chỉ, ngưng, trống rỗng, vô ích...
- hào 毫: nhỏ nhoi, ít ỏi, bút làm bằng lông dài và nhọn....
- cao 膏: mỡ động vật, trơn trợt.
- vượng đạo 王道: con đường đi đã tốt đẹp hơn (âm của vương là vượng cỉ sự thịnh vượng, tốt đẹp, tốt hơn trước...
- đãng bình 蕩平: vùng đất rộng lớn bằng phẳng...
- tấn 訊: thăm hỏi, hỏi han, báo cho biết, hỏi tội, mau lẹ, hỏi để biết tra hỏi...
- Minh Giang 明江: Minh Giang: bắt nguồn từ núi Phân Mao ở Quảng Đông, nhánh chảy phía nam ra vịnh Bắc Bộ làm ranh giới Việt Trung.
- Trường An 長安: thời nhà Đường, Trung Hoa đây là nơi đóng đô của triều đình.
Đến đời nhà Thanh khi Nguyễn Du đi sứ, kinh đô được đặt ở Bắc Kinh. Tuy nhiên từ thời Đường về sau chữ “Trường An” thường được các văn nhân Trung Hoa, Việt Nam... dùng để chỉ nơi kinh đô có triều đình.
BÀI 9
MẠC PHỦ TỨC SỰ 幕府即事
Triệt dạ la thanh bất tạm đình, 徹夜鑼聲不暫停,
Cô đăng tương đối đáo thiên minh. 孤燈相對到天明.
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử, 經旬去國心如死,
Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh. 一路逢人面盡生.
Sơn lộc tích nê thâm một mã, 山麓積泥深沒馬,
Khê tuyền phục quái lão thành tinh. 谿泉伏怪老成精.
Khách tình chí thử dĩ vô hạn, 客情至此已無限,
Hựu thị Yên Sơn vạn lý hành. 又是燕山萬里行.
Dịch nghĩa:
Tiếng phèn la không hề dứt suốt đêm, - Cùng với chiếc đèn lẻ loi cho đến khi trời sáng. - Trải qua mấy mươi ngày rời xa nước mà cõi lòng như chết! - Một con đường đi chỉ gặp người sinh sống tận nơi đây! (c.1-4)
Dưới chân núi, bùn dày đọng lại làm ngập thân ngựa, - Suối khe có những con thú kỳ lạ già lão thành loài thần quái. - Đến nơi đây tình cảm của khách nơi quê người chẳng thể nguôi ngoai, - Huống chi việc đi đến Yên Sơn còn muôn dặm nữa!
Tạm chuyển lục bát:
THƠ LÀM NGAY Ở MẠC PHỦ
Phèn la không ngớt suốt đêm,
Lẻ loi cùng với ngọn đèn đến mai.
Chết lòng rời nước mươi ngày,
Gặp người sinh sống tận đây dọc đường.
Bùn dày, ngựa ngập chân non,
Quái già núp suối thành con tinh rồi!
Đến đây tình khách không nguôi,
Huống chi muôn dặm xa vời Yên Sơn!
Chú thích:
- Mạc Phủ 幕府: đây là dinh trại gần biên giới Việt Trung mà Tôn Sĩ Nghị nhà Thanh đã đóng quân trước khi đi đánh nước ta và bị đại bại.
- kinh tuần 經旬: trải qua mấy mươi ngày (xem bài 8).
- tẫn sinh 盡生: (tẫn là âm của “tận”: kết, chấm dứt, cuối cùng, chết...) sinh sống tận cùng nơi đây (nơi biên giới xa xăm)...
- sơn lộc 山麓: vùng dưới chân núi nghĩa như “sơn cước 山踋”
- một 沒: chìm đắm, chết ngập ,ngập ngụa...
- quái 怪: kỳ quái, kỳ lạ khác thường...
- tinh 精: thần linh, thần quái, đẹp đẽ, tinh túy, sáng sủa, chọn lọc, trong sạch, nghĩ kỹ, thành thật...
- chí thử 至此: đến nơi đây.
- vô hạn 無限: không giới hạn, không hề nguôi...
- Yên Sơn 燕山: ngọn núi gần Yên Kinh.
(Lần đến: THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU Tập 3: Bắc Hành
Tạp Lục – Bài 10, 11 và 12)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét