THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - BÀI 87, 88, 89 VÀ 90
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CỦA ĐỖ PHỦ
Bài 87
CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (Kỳ 1) 乾 元中寓居同谷縣作歌 (期 ㇐)
Hữu khách, hữu khách tự Tử Mỹ, 有客有客字子美,
Bạch đầu loạn phát thuỳ quá nhĩ. 白頭亂髮垂過耳.
Tuế thập tượng lật tuỳ thư công, 歲拾橡栗隨狙公,
Thiên hàn nhật mộ sơn cốc lý. 天寒日暮山谷里。
Trung Nguyên vô thư quy bất đắc, 中原無書歸不得,
Thủ cước đống thuân, bì nhục tử. 手腳凍皴皮肉死。
Ô hô! Nhất ca hề, ca dĩ ai, 嗚呼㇐歌兮歌已哀,
Bi phong vị ngã tòng thiên lai. 悲風為我從天來。
Dịch nghĩa:
Có khách! Có khách tự là Tử Mỹ, - Đầu bạc trắng, tóc rối bời rủ xuống quá tai. – Quanh năm nhặt nhạnh hạt dẻ ,theo sau cụ ông chăn đàn vượn, - Chiều tối, trời lạnh trong hang núi. (c.1-4)
Chẳng có thư từ ở Trung nguyên, không về được, - Tay chân như đóng băng, nứt nẻ, da thịt chết. – Than ôi! Bài hát thứ nhất - chừ - với tiếng ca buồn bã ai oán, - Cơn gió đau buồn từ trời đến đau vì ta. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC.
(BÀI 1)
Khách tên Tử Mỹ có người,
Quá tai tóc rủ rối bời bạc phơi!
Quanh năm hái dẻ theo người,
Bên trong hang núi trời chiều lạnh tê.
Trung Nguyên thư vắng chẳng về!
Tay chân lạnh cóng tái tê da người.
Bài đầu buồn bã than ôi!
Gió đau thương đến từ trời vì ta!
Chú thích:
** Năm 759, lúc này Đỗ Phủ đã 48 tuổi bị chuyển sang huyện Đồng Cốc (nay là huyện Thành, tỉnh Cam Túc, Trung Hoa) mong cuộc mưu sinh được tốt hơn nhưng chẳng hơn gì như khi ở Tần Châu (huyện Thiên Thủy, Cam Túc) với gia cảnh khốn khó là giai đoạn khó khăn nhất mà Tử Mỹ phải chịu đựng! Chính thời kỳ này ông làm một loạt bài thơ như “Tam lại”, ”Tam biệt”, ”Tần Châu Tạp Thi” và “Đồng Cốc thất ca 同谷七歌” là 7 bài này.
- loạn phát 亂髮: tóc rối bời không chải chuốt...
- thùy quá nhĩ 垂過耳: rủ xuống quá tai...
- tuế thập 歲拾: thu nhặt,lượm lặt quanh năm... Ở đây, Đỗ Phủ với đời sống rất vất vả trong thời loạn An Lộc Sơn nên đã đi theo cụ ông có nuôi vượn chuyên leo trèo hái hạt dẻ để nhặt nhạnh hạt rơi rớt sống cho qua thời buổi khó khăn...
- tượng lật 橡栗: cây dẻ, hạt dẻ.
- tùy thư công 隨狙公: đi theo ông cụ chăn nuôi vượn, tập tành cho chúng hái trái trên cao (thư 狙: loài vượn lanh lẹ giảo hoạt; nghĩa khác là rình mò đánh trộm...)
- Trung Nguyên 中原: người Trung hoa gốc bộ tộc Hán thường tự hào cho rằng vùng Trung Nguyên là cái nôi phát sinh nền văn minh của Trung Hoa và nhiều khi họ tự cao xem đây là” trung tâm của thiên hạ”. Có khi người Hán trước kia cũng dùng các từ như “Trung Châu”, ”Trung Thổ” hay “Trung Quốc” để nói về vùng này. Vùng Trung Nguyên bao gồm khu vực trung và hạ lưu Hoàng Hà, nằm giữa Lạc Dương đến Khai Phong (nay là Hà Nam, Trung Hoa)...
- vô thư quy bất đắc 無書歸不得: không có thư tín hay tin tức gì (về việc trở về kinh đô) nên không thể trở về.
- đống 凍: đông lại thành đá, đóng băng...
- thuân 皴: da nứt nẻ...
- ô hô 嗚呼: tiếng than, lời than thở
Bài 88
CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (Kỳ 2) 乾元中寓居同谷縣作歌 (期二)
Trường sàm, trường sàm bạch mộc bính, 長鑱長鑱白木柄,
Ngã sinh thác tử dĩ vi mệnh. 我生托子以為命。
Hoàng độc vô miêu, sơn tuyết thịnh, 黃獨無苗山雪盛,
Đoản y sác vãn bất yểm hĩnh. 短衣數挽不掩脛。
Thử thì dữ tử không quy lai, 此時與子空歸來,
Nam thân nữ ngâm tứ bích tĩnh. 男呻女吟四壁靜。
Ô hô! Nhị ca hề, ca thuỷ phóng, 嗚呼二歌兮歌始放,
Lân lý vị ngã sắc trù trướng! 鄰里為我色惆悵。
Dịch nghĩa:
Xẻng dài, xẻng dài! Cán gỗ màu trắng, - Ta sinh ra đời chết sống do mệnh trời gây ra. – Củ hoàng tinh không mầm(do khô héo), núi non tuyết rất nhiều(đã che lấp khó thấy được), - Chiếc áo ngắn ngủi kéo xuống chừng như không che nổi cẳng chân (c.1-4)
Bây giờ, cùng với mày (cái cuốc cán dài) đi trở về không có gì (để ăn)! – Trai rên rỉ, gái rên xiết, bốn vách nhà không tiếng động. – Than ôi! Lần ca thứ hai_ chừ _bắt đầu phát ra, - Hàng xóm vì ta nên vẻ mặt (họ) có sắc buồn bã. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC.
(BÀI 2)
Xẻng đào gỗ trắng đằng chuôi,
Ta sinh sống chết do nơi mệnh trời.
Hoàng tinh tuyết núi khắp rồi,
Chẳng che chân cẳng,ngắn thôi áo này.
Về không – ta lại cùng mày!
Lặng thinh bốn vách rên hoài gái trai.
Than ôi! hát mới bài hai,
Vì ta hàng xóm sắc cài buồn thương.
Chú thích:
- sàm 鑱: cái cuốc, cái xẻng, cái dao hay lưỡi cày để đáo xới, bới móc...
- bính 柄: cái cán, cái chuôi để tra xẻng, cuốc, dao vào cho dài hơn...
- dĩ vi mệnh 以為命: do mệnh trời gây ra. Theo Khổng Tử, ông đã kể về con đường tu học của mình trong cuộc đời có sáu bước. Bước thứ năm lúc đã 50 tuổi ông đã có thể hiểu mệnh trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” 五十而知天命 (Luận ngữ - Vi chính); hoặc: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên 死生有命, 富貴在天 “nghĩa là: Sống chết có mạng, giàu sang do trời (Luận ngữ 論語 - Nhan Uyên)
- hoàng độc 黃獨: một loại củ hoang mọc trên các đồi núi còn gọi là khoai “hoàng tinh”, luộc chín có màu vàng, có thể dùng để ăn. [chữ “ hoàng độc” hay “hoàng tinh” theo cách dịch nghĩa của GS Trần Trọng San, Thơ Đường, cuốn II, NXB Bắc Đẩu Saigon, tái bản lần 2,1970, tr.120]
- miêu 苗: mầm non, lúa non, mầm mống, nòi giống, cây mạ để trồng lúa...
- thinh 盛: nhiều, đông đúc, rất, phong phú, hung thịnh, chứa đựng...
- sác 數: (sổ) đếm, trách mắng, cân nhắc, tính phỏng chừng, số kiếp, tài nghệ...
- vãn 挽: kéo lại, co kéo, cắt xén, buộc, thắt, ai điếu...
- yểm 掩: che đậy, lấp liếm, đánh úp (yểm tập), ngậm, đóng...
- hĩnh 脛: cẳng chân, từ đầu gối xuống bàn chân...
- tử 子: mày, mi, ngươi, con, gã (kẻ tầm thường), non trẻ, bậc thầy đáng kính (Khổng Tử, Mạnh Tử...)...
- không 空: không có gì, trống rỗng, bầu trời, vắng vẻ....
- thân ngâm 呻吟: rên rỉ, rên xiết, kêu than...
- tĩnh 靜: yên lặng, không tiếng động ...
- thủy 始: mới, bắt đầu, trước...
- phóng 放: buông thả, phát ra, buông lỏng, nới ra, làm to ra, đặt...
- sắc 色: sắc màu, dáng vẻ, bóng dáng, cảnh sắc, cảnh tượng, sắc tướng (Phât)...
- trù trướng 惆悵: buồn sầu, buồn bã...
Bài 89
CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (Kỳ 3) 乾元中寓居同谷縣作歌(期三)
Hữu đệ, hữu đệ tại viễn phương, 有弟有弟在遠方,
Tam nhân các sấu, hà nhân cường. 三人各瘦何人強。
Sinh biệt triển chuyển bất tương kiến, 生別展轉不相見,
Hồ trần ám thiên đạo lộ trường. 胡塵暗天道路長。
Đông phi gia nga, hậu thu thương, 東飛鴐鵝後鶖鶬,
An đắc tống ngã trí nhữ bàng? 安得送我置汝旁。
Ô hô! Tam ca hề, ca tam phát, 嗚呼三歌兮歌三發,
Nhữ quy hà xứ thu huynh cốt? 汝歸何處收兄骨。
Dịch nghĩa:
Có em trai! Có em trai ở phương xa!, - Ba người đều gầy ốm, người khỏe nào đâu? – Sống phải xa cách trằn trọc không được trông thấy nhau. – Bụi quân Hồ mù mịt, bầu trời tối tăm, đường đi dài dằng dặc (c.1-4)
Đàn ngỗng trời bay về phía đông, phía sau là loài chim hạc lớn, - Làm sao đưa ta đến bên cạnh các em? - Than ôi! Ba lần ca _ chừ _ bài ca ba lần phát ra! – Nơi nào để các em trở về thu nhặt xương cốt của anh đây?! ( c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC.
(BÀI 3)
Có em trai ở phương xa,
Ba người còm cõi, ai là khỏe đâu!?
Sống ngăn cách, chẳng thấy nhau,
Bụi Hồ mù mịt, dài sao con đường!
Ngỗng trời, đàn hạc về đông,
Làm sao ta đến được cùng em tôi?
Ca ba lần phát! Than ôi!
Xương anh, em đến thu hồi chốn nao?
Chú thích:
- hữu đệ : đó là bốn em trai của Đỗ Phủ tên là Dĩnh, Quan, Phong và Chiêm. Chỉ có Đỗ Chiêm theo ông vào đất Thục, các em khác mỗi người ở mỗi nơi...
- các sấu 各瘦: đều gầy gò, ốm oi, còm cõi, đều gầy ốm...
- sinh biệt 生別: sống phải chia ly, xa cách nhau...
- triển chuyển 展轉: trằn trọc, xoay trở không yên...
- câu 4: Hồ: đây chỉ giặc An Lộc Sơn , người thuộc tộc Hồ Ngột vùng biên giới tây bắc được triều đình nhà Đường Trung Hoa tin tưởng giao trấn nhậm ba trấn là Bình Lư, Phạm Dương và Hà Đông với chức danh là tiết độ sứ. Năm Thiên Bảo đời Đường Minh Hoàng (755) ,An Lộc Sơn nổi loạn đem quân vây hãm kinh thành Trường An và Đồng Quan khiến nhà vua phải chạy sang đất Thục. Đến Mã Ngôi Pha, quân lính đòi Dương Quý Phi phải tự vẫn họ mới chịu tiến quân qua Thục. Buộc lòng Dương Quý Phi phải tự vẫn. Vó ngựa quân Hồ làm dấy lên bụi bặm của sự loạn lạc (Hồ trần 塵暗) và biết bao đau khổ cho dân chúng.... Đây là giai đoạn Đỗ Phủ phải ăn nhờ ở đậu nhiều nơi để tránh loạn lạc . Khi quan quân chiếm lại Trường An, Túc Tông, con của Đường Minh Hoàng trở về kinh đô, Đỗ Phủ cũng đem gia quyến theo về kinh được phong chức Tả thập di ,chuyên việc can gián vua nhưng khi có việc can gián lại trái ý vua nên bị đổi đi Hoa Châu (Thiểm Tây) hay Lạc Dương. Nhưng rồi loạn Sử Tư Minh lại nổi lên gây ra biết bao nhiễu nhương và cuộc sống của Tử Mỹ cũng long đong vất vả cho đến cuối đời rồi mất trên thuyền khi định về Trường An tránh loạn lạc .Do gia thế quá nghèo túng nên linh cữuphải quàng tại Nhạc Châu. Mãi cho đến đời cháu là Đỗ Tự Nghiệp mới sắp xếp qua Nhạc Châu đem về chôn cất ở núi Thủ Dương gần mộ của viễn tổ Đỗ Dự và tổ phụ là Đỗ Thẩm Ngôn...
- ám thiên: bầu trời mù mịt đen tối....
- gia nga 鴐鵝: một loại ngỗng trời có thể bay rất cao và xa...
- thu thương: loài chim sống đầm nước, thuộc loài hạc nhưng to hơn, mỏ và cánh dài...
- an đắc 安得: làm sao được, làm sao có thể được, đâu được, sao lại...
- tống ngã 送我: đưa ta đến...
- trí nhữ bàng 置汝旁: để yên chỗ, đặt để (trí) bên cạnh (bàng) cùng mày, cùng các em (nhữ)...
- phát 發: phát ra, gửi đi, phất lên, mở ra, bới lên, khiến...
Bài 90
CÀN NGUYÊN TRUNG NGỤ CƯ ĐỒNG CỐC HUYỆN TÁC CA (Kỳ 4) 乾元中寓居同谷縣作歌期四
Hữu muội, hữu muội tại Chung Ly, 有妹有妹在鐘離,
Lương nhân tảo một, chư cô si. 良人早沒諸孤痴。
Trường Hoài lãng cao, giao long nộ, 長淮浪高蛟龍怒,
Thập niên bất kiến, lai hà thì? 十年不見來何時。
Thiên chu dục vãng tiễn mãn nhãn, 扁舟欲往箭滿眼,
Yểu yểu nam quốc đa tinh kỳ. 杳杳南國多旌旗。
Ô hô! Tứ ca hề, ca tứ tấu, 嗚呼四歌兮歌四奏,
Lâm viên vị ngã đề thanh trú. 林猿為我啼清晝。
Dịch nghĩa:
Có cô em gái !Có cô em gái ở Chung Ly, - Chồng đã mất sớm, con cái lẻ loi còn thơ dại. – Sông Hoài dài, sóng cuộn cao, thuồng luồng giận dữ ! – Mười năm rồi không gặp, bao giờ (em) đến đây? (c.1-4)
Muốn dùng chiếc thuyền nhỏ nhanh chóng (như tên bắn) đến với em để nhìn cho no mắt ( cho thỏa lòng mong nhớ)! – Nước nam mờ mịt lắm cờ xí (tung bay)! Than ôi! Bài ca lần thứ tư - chừ - (tiếng) hát cất lên bốn lần! – Vì ta, loài vượn rừng hú kêu lúc ban ngày! (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
BÀI CA LÀM KHI Ở TẠM TẠI CÀN NGUYÊN, HUYỆN ĐỒNG CỐC.
(BÀI 4)
Có cô em gái Chung Ly,
Chồng đà sớm mất, con thì ngây ngô!
Sông Hoài giao giận sóng xô,
Mười năm chẳng gặp, bao giờ đến đây?
Thuyền con tên bắn “mắt đầy”!
Nước nam mờ mịt cờ bay nhiều rồi!
Hát lên lần bốn! Than ôi!
Vì ta vượn hú kêu thôi ban ngày!
Chú thích:
- Chung Ly 鐘離: tên một huyện xưa thời nhà Đường, nay là huyện Phụng Dương, An Huy, Trung Hoa.
- lương nhân 良人: chữ người vợ dùng khi nói về chồng mình...
- tảo một 早沒: mất sớm, chết sớm...
- chư 諸: hợp âm của chữ “chi 之” và “ư 於” dùng chỉ một việc nào đó . VD: “cái đó” chỉ chung chung, mọi việc: mẹ thì lẻ loi, các con còn ngây dại chưa biết gì (chư cô si)
- si 痴: ngây ngô ,khờ dại ,ngớ ngẩn ,si mê, cuồng điên...
- Hoài 淮 : sông Hoài phát nguyên từ núi Đồng Bách chảy qua phía bắc hai tỉnh An Huy và Giang Tô , Trung Hoa.
- giao long 蛟龍: tức con thuồng luồng, một loài cá lớn và dài có dáng của con rồng theo truyền thuyết, ở các con sông lớn thời xưa.
- nộ 怒: giận dữ, thịnh nộ...
- thiên chu 扁舟: con thuyền nhỏ có thể chèo lướt đi rất nhanh...
- dục vãng tiễn 欲往: mong muốn (dục) đi đến, đi theo hướng (vãng) bay nhanh của mũi tên bắn ra từ cung nỏ(tiễn)...
- mãn nhãn 滿眼: tràn đầy đôi mắt, nhìn no mắt không chán chê, chỉ sự thỏa lòng trông gặp nhau hay mong nhớ được gặp nhau. Nghĩa như chữ “mãn mục 滿目”...
- yểu yểu 杳杳: tối tăm, mờ mịt, sâu thẳm, sâu kín, vắng bặt, mênh mông...
- đa tinh kỳ 多旌旗: nhiều cờ xí chỉ sự loạn lạc, nhiều phe nhóm nổi dậy đánh nhau gây ra nhiều khổ nạn cho dân...
- tấu 奏: cử nhạc lên, tấu nhạc, tâu lên cho vua biết...
- đề thanh trú 啼清晝: tiêng kêu hú ban ngày...
[Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - Càn nguyên... (tt). Bài 91, 92, 93]
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét