Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 59 Và 60

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - BÀI 59 VÀ 60
Thầy Dương Anh Sơn 

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - THỜI KỲ SAU KHI BỊ TÙ OAN MUỐN LUI VỀ ẨN DẬT (khoảng 1429-1437)

Bài 58

HẠ NHẬT MẠN THÀNH (KỲ NHẤT)                                夏 日 漫成 (期一)

Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên,                                 傳家舊業只青氈,
Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền (toàn)                                離亂如今命苟全.
Phù thế bách niên chân tự mộng,                                           浮世百年真似夢,
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên                                          人生萬事總關天.
Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự,                                                一壺白酒消塵慮,
Bán tháp thanh phong túc ngọ miên.                                     半榻清風足午眠.
Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn,                                                 惟有故山心未斷,
Hà thì kết ốc hướng mai biên.                                                何時結屋向梅邊.
Nguyễn  Trãi                                                                           阮廌

Dịch nghĩa:

Vật nhà và nghiêp xưa truyền lại chỉ có chiếc chăn xanh, - Thời buổi loạn lạc mà nay mạng vẫn tạm vẹn toàn. - Cuộc đời trôi nổi trăm năm thực ra như giấc mộng, - Đời người muôn việc hết thảy đều do ông trời sắp đặt. (c.1-4)
Một bầu rượu trắng sẽ tiêu đi những âu lo của cuộc đời - Nửa chiếc giường cùng với gió trong mát đủ để dỗ dành giấc trưa - Chỉ có tấm lòng với núi quê xưa chưa bị đứt đoạn – Bao giờ làm được mái nhà ở bên gốc mai đây? (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát :

LÀM THƠ TẢN MẠN NGÀY HÈ (Bài 1)

Nghiệp xưa truyền lại chăn xanh,
Loạn ly nay mệnh vẹn lành đó thôi.
Trăm năm như giấc mộng đời,
Đời người muôn việc, trời cao sắp bày.
Âu lo - bầu rượu tiêu ngay,
Nửa giường gió mát đủ vầy giấc trưa!
Chưa nguôi lòng với non xưa,
Mái nhà dựng được bao giờ bên mai?!

Chú thích:

- truyền gia 傳家: vật được gia đình truyền lại cho đời sau...
- cựu nghiệp 舊業: chỉ nghiệp nho, con đường của kẻ sĩ ngày xưa.
- thanh chiên 青氈: chỉ cuộc sống đạm bạc của các nhà nho nghèo (thanh chiên: chăn lông hoặc vải mềm màu xanh để bện chăn). Do chuyện Vương Hiến Chi đời nhà Tấn bên Trung Hoa thấy kẻ trộm vào nhà muốn cướp đồ vật. Ông đã ung dung bảo tên trộm: “ Ngươi lấy gì thì cứ việc lấy,riêng cái chăn đệm xanh đã cũ của nhà, hãy bỏ lại cho ta!”
- cẩu toàn(tuyền)苟全: bảo toàn tính mạng thời loạn lạc, tạm giữ được mạng sống....
- tự mộng 似夢: giống như giấc mộng, tựa như cõi mộng.....
- phù thế 浮世: cuộc đời lênh đênh, chìm nổi.
- tổng quan thiên 總關天: rốt lại do ông trời sắp đặt (quan: xếp đặt, cửa vào, quan ải..).
- trần lự 塵慮: những nỗi âu lo, lụy phiền.
- cố sơn: 故山 chốn xưa, quê xưa, núi xưa .v.v... Niềm mong nhớ về một quê hương thanh bình, an nhàn theo cách nói của người xưa.
- kết ốc 結屋: làm ra được cái nhà, kết quả làm nơi ở...

Bài 59

HẠ NHẬT MẠN THÀNH (Kỳ nhị)                                     夏日漫成期二

Vũ quá đình kha trưởng lục âm,                                            雨過庭柯長綠陰,
Thiền thanh cung chủy tấu Ngu cầm.                                    蟬聲宮徵奏虞琴.
Song tiền hoàng quyển công môi thụy,                                  窗前黃卷工媒睡,
Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm.                                        戶外青山故索吟.
Trú tĩnh càn khôn khoan đạo tứ.                                            晝靜乾坤寬道思,
Nhân gian danh lợi tỉnh sơ tâm,                                             人間名利醒初心.
Hồi đầu tam thập niên tiền sự.                                               回頭三十年前事,
Mộng lý du du cánh mạc tầm                                                夢裡悠悠更莫尋.
Nguễn Trãi                                                                            阮廌

Dịch nghĩa:

Cơn mưa đi qua, cành cây dài và to ở sân bóng râm xanh thẫm, - Tiếng ve kêu lên như hai âm “cung” và “chủy” của cây đàn vua Thuấn. - Trước song cửa, quyển sách màu vàng được dùng dỗ giấc ngủ, - Bên ngoài cửa, ngọn núi xanh như muốn giục ngâm thơ. (c.1-4)
Ban ngày trời đất yên ắng mở ra ý đạo rộng lớn, – Trong cõi người,
chuyện lợi danh lòng đã tỉnh ngộ từ thuở ban đầu. – Quay đầu nhớ chuyện ba chục năm trước, – Giấc mộng xa xăm lại thêm vào trong đó nên chẳng ai có thể tìm. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

LÀM THƠ TẢN MẠN NGÀY HÈ (Bài 2)

Tạnh mưa cành rợp xanh sân,
Đàn Ngu “cung, chủy” ve rần tấu vang.
Trước song dỗ giấc sách vàng,
Non xanh ngoài cửa giục ngâm thơ rồi.
Ngày yên mở đạo đất trời,
Lợi danh tỉnh ngộ cõi người từ lâu.
Ba mươi năm, chuyện ban đầu,
Xa xăm trong mộng ai đâu mà tìm?!

Chú thích:

- kha trưởng 柯長 :cành lá to và dài xum xuê...
- cung, chủy 宮微: hai âm trong ngũ âm của nhạc phương Đông (cung 宮, thương 商 giốc 角, chủy 徵, vũ 羽).
- Ngu cầm 虞琴: cây đàn tương truyền do vua Thuấn, đời nhà Ngu bên Trung Hoa chế tác (2255-2200 T.C.N) . Nhà vua thường gảy bài Nam phong, khi mùa hè có gió nam thổi đến, có tiếng ve kêu nên các nhà thơ dùng để ám chỉ tiếng Ngu cầm đang tấu nhạc.....
- công môi thụy 工媒睡: làm nguyên cớ cho giấc ngủ ,làm cho dễ ngủ (môi: nguyên nhân, nguyên cớ, môi giới. Trong bài “Quan hải 關海”, Nguyễn Trãi đã viết: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật 禍福有媒非一日” nghĩa là: họa và phúc đều có nguyên do, không
phải là một ngày mà dấy lên!)
- sách索: muốn, tìm tòi, phép tắc, một mình.
- trú tĩnh晝靜: ban ngày yên ắng, vắng lặng.
- khoan 寬 khoan: mở rộng ra, che chở, khoan thai; khoan đạo tứ: mở ra ý đạo.
- nhân gian: 人間 nhân gian: cõi người ta. Có sách âm chữ gian thành chữ nhàn 閒 (bản Đ.D.A h.đ). Có lẽ nghĩa chữ nhân gian hiểu như “chốn người ta” hay theo gọi theo cách của Nguyễn Du là “cõi người ta”( “Trăm năm trong cõi người ta... câu 1”) hợp lý hơn.
- hoàng quyển黃卷: sách có loại giấy màu vàng.
- du du 悠悠: xa xôi, xa thẳm, xa dằng dặc

(Lần đến: Ư.T.T.T. với 3 bài MẠN THÀNH 60, 61và 62)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét