Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Tập 3: Bắc Hành Tạp Lục - Bài 19, 20, 21 Và 22

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3: BẮC HÀNH TẠP LỤC - BÀI 19, 20, 21 VÀ 22
Thầy Dương Danh Sơn

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
TẬP 3 : BẮC HÀNH TẠP LỤC

Bài 19

THÁI BÌNH THÀNH HẠ VĂN XUY ĐỊCH                            太平城下聞吹笛

Thái Bình thành ngoại tây phong khởi,                                      太平城外西風起,
Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thuỷ.                                       吹皺寧明一江水.
Giang thủy trứu hề ,giang nguyệt hàn,                                       江水皺兮江月寒,
Thùy gia hoành địch bằng lan can.                                            誰家橫笛憑欄杆.
Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ,                                                二十七人共回首,
Cố hương dĩ cách vạn trùng san!                                               故鄉已隔萬重山.

Dịch nghĩa:

Ngoài thành Thái Bình, gió phía tây đã nổi lên, - Gió thổi nước sông Ninh Minh gợn sóng. - Nước sông gợn sóng hề! Trăng sông lạnh! - Ai đâu tựa vào lan can thổi sáo vang lên. - Làm cho hai mươi bảy người cùng quay đầu lại nhìn. - Quê hương chốn cũ đã cách xa muôn trùng núi non rồi!

Tạm chuyển lục bát:

NGHE SÁO THỔI DƯỚI THÀNH THÁI BÌNH

Thái Bình ngoài nổi gió tây,
Ninh Minh thổi gợn cau mày dòng sông.
Trăng sông sóng gợn lạnh lùng,
Lan can thổi sáo vang lừng ai đâu?
Hai mươi bảy kẻ quay đầu,
Cách muôn trùng núi dãi dầu quê hương.

Chú thích:

- Thái Bình, Ninh Minh 太平,寧明: một phủ và môt châu ở Quảng Tây, Trung Hoa thời nhà Thanh. Nay là một huyện của địa khu Sùng Tả, tiếp giáp với tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của nước ta.
- trứu 皺 : cau mày, mặt nhăn nhó, vẻ nhăn nhúm co lại, gợn sóng (Ôn Như Hầu: “Nước còn cau mặt với tang thương...” – Cung Oán Ngâm Khúc)
- hề 兮: tiếng đệm, trợ từ trong các từ khúc. Ví dụ như thơ của Đào Tiềm: “Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy” (Về đi thôi hề! Ruộng vườn sắp hoang vu, sao không quay trở về?).
- hoành địch 橫笛: cây sáo cầm ngang để thổi...
- bằng 憑: tựa vào, nhờ cậy.
- Câu 5: đoàn sứ giả sang nhà Thanh Trung Hoa do Nguyễn Du dẫn đầu có 27 thành viên.

Bài 20

THÁI BÌNH MẠI CA GIẢ                                                        太平賣歌者

Thái Bình cổ sư thô bố y,                                                           太平瞽師粗布衣,
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi.                                             小兒牽挽行江湄.
Vân thị thành ngoại lão khất tử,                                                 云是城外老乞子,
Mại ca khất tiền cung thần xuy.                                                 賣歌乞錢供晨炊.
Lân chu thời hữu hiếu âm giả,                                                   鄰舟時有好音者,
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ.                                      牽手引上船窗下.
Thử thời thuyền trung ám vô đăng,                                            此時船中暗無燈,
Khí phạn bát thủy thù lang tạ.                                                    棄飯潑水殊狼藉.
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung,                                          摸索引身向坐隅,
Tái tam cử thủ xưng đa tạ.                                                         再三舉手稱多謝.
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh,                                          手挽弦索口作聲,
Thả đàn thả ca vô tạm đình.                                                       且彈且歌無暫停.
Thanh âm thù dị bất đắc biện,                                                    可音殊異不得辨,
Ðãn giác liêu lượng thù khả thinh.                                             但覺嘹喨殊可聽.
Chu tử tả tự vị dư đạo:                                                               舟子寫字為余道,
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành.                                           此曲世民與建成.
Quan giả thập số tịnh vô ngữ,                                                    觀者十數並無語,
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.                  但見江風蕭蕭江月明.
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc,                                            口噴白沫手酸縮,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.                                   卻坐斂弦告終曲.
Ðan tận tâm lực cơ nhất canh,                                                    殫盡心力幾一更,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.                                                    所得銅錢僅五六.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,                                                  小兒引待下船來,
Do thả hồi cố đảo đa phúc.                                                         猶且回顧禱多福.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân:                                                         我乍見之悲且辛,
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.                                      凡人願死不願貧.
Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão,                                                  只道中華盡溫飽,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!                                            中華亦有如此人.
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ,                          君不見使船朝來供頓例,
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.                                 一船一船盈肉米.
Hành nhân bão thực tiện khí dư,                                                行人飽食便棄餘,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.                                              殘肴冷飯沉江底.

Dịch nghĩa:

Thành Thái Bình có ông mù mặc quần áo vải thô xấu, - Em nhỏ dẫn dắt, kéo đi theo mé bờ sông. - Nghe rằng đó là ông lão ăn xin ở ngoài thành, - Làm nghề hát rong xin tiền ăn uống, thổi nấu sớm hôm đỡ lòng. (c.1-4)
Bấy giờ, có thuyền kế bên có người thích nghe đàn hát, - Nắm tay dẫn xuống thuyền bên song cửa. - Lúc này trong thuyền tối om không có đèn với cơm thừa nước đổ bừa bãi nơi chỗ chiếu nằm. (c.5-8)
Mò mẫm sờ soạng rồi ngồi vào một góc, - Hai ba lần đưa tay để cảm ơn. - Tay nắm dây đàn, mở miệng cất tiếng hát, - Vừa đàn vừa ca hát không ngừng nghỉ. (c.9-12)
Tiếng hát, tiếng đàn khác lạ không hiểu được, - Chỉ thấy như chim hót trong trẻo tai dễ nghe. - Nhà thuyền dùng chữ viết để tả cho ta hay: - “Đây là khúc hát Thế Dân với khúc Kiến Thành”. (c.13-16)
Hơn mười người nghe đều im lặng, - Chỉ thấy gió thổi hiu hiu lạnh trên dòng sông có ánh trăng sáng. - Miệng sùi nước bọt trắng xóa, tay rã rời, - Ngồi thu lại đàn báo là đã hết. (c.17-20)
Dốc hết tâm lực gần một trống canh, - Chỉ được ít ỏi năm sáu đồng tiền. - Đứa trẻ dẫn đến xuống thuyền , - Còn quay người lại chúc phước. (c.21-24)
Bất chợt ta trông thấy mà lòng thương xót: - Thà chết còn không mong chi phải chịu nghèo túng. - Nghe nói nước Trung Hoa ấm no đủ đầy. - Trung Hoa lại có những người như thế sao? (c.25-28)
Anh có thấy chăng mỗi sáng sớm cứ chiếu lệ đem thức ăn cung cấp cho thuyền sứ, - Thuyền này, thuyền kia đầy gạo thịt. - Người đi ăn uống no say còn dư đem bỏ đi ! - Cơm thừa canh cặn chìm xuống đáy sông. (c.29-32)

Tạm chuyển lục bát:

NGƯỜI HÁT RONG Ở THÁI BÌNH

Thái Bình áo vải ông mù,
Trẻ con kéo dẫn đi từ mé sông.
Ăn xin nghe nói lão ông,
Đỡ lòng hôm sớm hát rong xin tiền.
Thích nghe ca hát thuyền bên,
Cầm tay dẫn dắt lên thuyền mé song.
Không đèn, thuyền tối bên trong,
Cơm thừa canh cặn bòng bong vãi đầy.
Lần dò vào góc ngồi đây,
Tạ ơn ba bận, chắp tay mấy lần!
Miệng ca tay nắn dây đàn,
Vừa đàn, vừa hát đâu màng nghỉ ngơi.
Âm thanh lạ, chẳng hiểu rồi!
Chỉ nghe trong trẻo nhẹ vời bùi tai.
Nhà thuyền viết để ta hay:
“Kiến Thành khúc hát với này Thế Dân”
Người nghe hơn chục lặng câm,
Nhìn sông trăng sáng, gió vần lạnh khơi.
Miệng sùi bọt, tay rã rời,
 Thu đàn ngồi xuống báo rồi khúc ca.
Một canh đem hết sức ra,
Tiền gom năm sáu được là thế thôi!
Rời thuyền, bé dẫn đi rồi,
Vẫn còn chúc phước, quay người phía trong.
Ta đây chợt thấy xót lòng,
Làm người thà chết nghèo không mong rồi!
Trung Hoa no ấm đầy nơi,
Trung Hoa cũng có những người thế sao!
Thấy chăng thuyền sứ sáng nào,
Thuyền thuyền lệ bữa thịt trao gạo đầy.
Người đi ăn nhậu no say,
Thức dư cơm nguội đổ vầy đáy sông!

Chú thích:

- mại ca 賣歌: bán lời ca tiếng hát để sống, hát rong để sống.
- cổ sư 瞽師: ông thầy mù, người mù lòa, người đàn hát thời xưa
- khiên vãn 牽挽: dẫn dắt và kéo lại, kéo đi.
- cung thần xuy 供晨炊: thổi nấu buổi sáng sớm để ăn cho có sức, ăn đỡlòng.
- bát thủy 潑水: nước bắn ra tung tóe, nước tràn lan.
- thù lang tạ 殊狼藉: hết sức,rất (thù) bừa bãi, lộn xộn, như mớ bòng
bong (lang)nơi chỗ chiếu nằm (tạ).
- mô sách 摸索: mò mẫm, sờ soạng (mô) tìm kiếm (sách) lối đi...
- ngung 隅: góc.
- thủ vãn huyền sách 手挽弦索: tay kéo, nắn (vãn) dây tơ (huyền sách) của cây đàn.
- bất đắc biện 不得辨: không phân biệt hay nhận rõ được...
- liêu lượng 嘹喨: tiếng chim kêu trong trẻo, âm thanh nhẹ nhàng êm ái
- tả tự vị dư đạo 寫字為余道: viết hay ghi(tả) chữ (tự) trên giấy chỉ dẫn(đạo) giúp cho (vị) ta (dư) .
- Thế Dân, Kiến Thành 世民建成: là hai người con của Đường Cao Tổ nước Trung Hoa. Do ghen tị và ham muốn ngôi vua, Thế Dân tìm mọi cách để vu cáo Kiến Thành đang ở ngôi Thái Tử rồi soán đoạt, giết anh để mong làm vua. Đó là Đường Thái Tông sau này (627-649). Đây là khúc hát rong kể chuyện hai anh em nhà Đường này.
- quan giả 觀者: người xem hay quan sát sự việc...
- bạch mạt 白沫: nước bọt trắng xóa, sùi bọt trắng....
- thủ toan súc 手酸縮: tay co lại đau buốt...
- khước tọa liễm huyền 卻坐斂弦: lùi về (khước) ngồi (tọa) thu lại, ngưng lại (liễm) dây đàn (huyền)
- đan tận 殫盡: dốc hết,làm hết sức..
- cơ nhất canh 幾一更: gần (cơ) một canh...
- cận 僅: chỉ, ít ỏi, chỉ vẻn vẹn...
- tân 辛: cay đắng, xót xa, đau đớn, buồn đau...
- chỉ đạo 只道: vẫn nghe nói, thường nghe rằng...
- tận ôn bão 盡溫飽: nơi nơi đều no ấm hết cả.
- tàn hào 殘肴: thức ăn như thịt, cá (đã nấu chín- hào) còn thừa lại (tàn).

Bài 21

CHU HÀNH TỨC SỰ                                                               舟行即事

Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi,                                                 西粵山川多險巇,
Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai).                             行 行從 此向天 涯.
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng,                                      崩崖怪石怒相向,
Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi.                                                  水馬沙禽狎不飛.
Thiên địa thiên chu phù tự diệp,                                                天地扁舟浮似葉,
Văn chương tàn tức nhược như ti.                                             文章殘息弱如絲.
Vị liên thượng quốc phong quang hảo,                                      為憐上國風光好,
Quan toả hương tình vị phóng qui.                                            關鎖鄉情未放歸.

Dịch nghĩa:

Sông núi miền đất Tây Việt rất nhiều sự hiểm trở, - Ra đi, đi mãi theo hướng đến chân trời. - Vách núi bị lỡ đất đá chuồi xuống và những hòn đá hình dáng kỳ lạ như đang giận dữ hướng nhìn về nhau, - Loài chim sống ở bãi sông và những con vịt trời quen thuộc đùa giỡn không bay. (c.1-4)
Chiếc thuyền con nhỏ bé giữa trời đất trôi đi như chiếc lá, - Văn chương ở tuổi tàn hơi giống như sợi tơ mềm mong manh. - Vì yêu mến phong cảnh đẹp của nước lớn, - Nên mối tình quê khóa chặt không thả cho quay về! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

ĐI THUYỀN LÀM THƠ

Núi sông Tây Việt hiểm đầy,
Ra đi theo mãi hướng ngay chân trời.
Giận nhìn: đá quái, núi chuồi,
Chẳng bay chim bãi, vịt trời giỡn quen.
Lá trôi, trời đất, con thuyền,
Văn chương như sợi tơ mềm tàn hơi!
Vì yêu cảnh đẹp nước người,
Tình quê khóa chặt đó thôi chưa về.

Chú thích:

- tức sự 即事: làm thơ hay nói về những sự việc đang xảy ra trước mắt.
- Tây Việt 西粵: là vùng đất của người Bách Việt xưa kia ở giữa Quảng Tây và Quảng Đông nước Trung Hoa bây giờ . Trong thơ văn và đời sống xã hội của người Trung Hoa,nhiều người khi nói đến vùng này vẫn gọi là Tây Việt theo thói quen từ cha ông của họ mặc nhiên công nhận đó là vùng đất từng là của các bộ tộc Việt xa xưa trước khi bị người Hán xâm chiếm đẩy ngưởi Việt xuống vùng đồng bằng Bắc Việt hiện nay...
- hiểm hi 險巇: hiểm trở, nguy hiểm...
- băng nhai 崩崖: vách núi bị lở hoặc đất đá vách bị chuồi.
- hiệp 狎: quen thuộc, đùa giỡn....
- thiên chu 扁舟: con thuyền nhỏ bé, mỏng manh...
- tàn tức 殘息: hơi tàn, chỉ người già yếu.
- phong quang hảo 風光好: phong cảnh sáng sủa đẹp đẽ...
- thượng quốc 上國: nước trên, nước lớn. Cách gọi của nước nhỏ đối với nước lớn thời quân chủ phong kiến.
- quan tỏa 關鎖: khóa lại, đóng chặt cửa.

Bài 22

SƠN ĐƯỜNG DẠ BẠC                                                            山塘夜泊

Ngọ mộng tỉnh lai vãn,                                                               午夢醒來晚,
Tà nhật yểm song phi.                                                                斜日掩窗扉.
Phong kính duy thuyền tảo,                                                       風勁維船早,
Sơn cao đắc nguyệt trì.                                                               山高得月遲.
Ỷ bồng thiên lý vọng,                                                                 倚篷千里望,
Hợp nhãn cách niên ti (tư).                                                        合眼隔年思.
Mạc cận thương nhai túc,                                                           莫近蒼岸宿,
Ðề viên triệt dạ bi.                                                                      啼猿徹夜悲.

Dịch nghĩa:

Khi tỉnh giấc mộng ban trưa cũng đã muộn rồi,- Ánh nắng nghiêng của buổi chiều (chói lọi) phải đóng cảnh cửa sổ lại. - Gió thổi mạnh lên nênphải sớm buộc thuyền, - Núi cao nên chậm thấy được trăng lên. (c.1-4)
Dựa vào mui thuyền trông vời về ngàn dặm xa xôi, - Khép mắt nghĩ ngợi đã cách một năm qua đi. - Chớ nên đậu thuyền ở lại gần bên vách núi xanh , - Vì tiếng vượn hú sẽ làm buồn bã suốt đêm thâu. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

ĐẬU THUYỀN ĐÊM Ở SƠN ĐƯỜNG

Mộng trưa tỉnh dậy muộn màng,
Cửa song khép lại chiều tàn bóng nghiêng.
Gió to phải sớm buộc thuyền,
Núi cao chậm thấy trăng lên được rồi!
Tựa mui ngàn dặm trông vời,
Khép con mắt nghĩ: năm trôi thêm lần.
Vách non xanh ngắt chớ gần,
Suốt đêm vượn hú buồn dâng mãi hoài!

Chú thích:

- bạc 泊: điềm tĩnh, lặng lẽ , mỏng manh, dừng để nghỉ đêm, thuyền dừng.
- duy 維: ràng buộc, cột lại, buộc chặt.
- bồng 篷: mui thuyền làm bằng tre.
- hợp 合: đóng lại, tập hợp, thuận theo.
- cách niên 隔年: cách: thay đổi, xa cách, cách ngăn, không hợp nhau. Cách niênđã cách ra một năm rồi...
- túc 宿: ở lại, trú lại.

(Lần đến: BẮC HÀNH TẠP LỤC – Bài 23, 24, 25 và 26)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét