Thứ Ba, 24 tháng 6, 2025

Thơ Đỗ Phủ - Bài 98, 99 Và 100

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 98, 99 VÀ 100
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA ĐỖ PHỦ

Bài 98

ĐỀ HUYỀN VŨ THIỀN SƯ                                                     題玄武禪師
ỐC BÍCH

Hà niên Cố hổ đầu,                                                                     何年顧虎頭,
Mãn bích hoạ Thương Châu.                                                     滿壁畫滄州。
Xích nhật thạch lâm khí,                                                            赤日石林氣,
Thanh thiên giang hải lưu.                                                         青天江海流。
Tích phi thường cận hạc,                                                            錫飛常近鶴,
Bôi độ bất kinh âu.                                                                     杯渡不驚鷗。
Tự đắc Lư Sơn lộ,                                                                      似得廬山路,
Chân tuỳ Huệ Viễn du.                                                               真隨惠遠遊。
(năm 762)

Dịch nghĩa:

Năm nào ông Cố hổ đầu, - Vẽ cảnh Thương Châu tràn đầy trên bức vách, - Mặt trời đỏ với khí từ đá bốc lên của khu rừng, - Bầu trời xanh , sông biển chảy. (c.1-4)
Chiếc gậy bay thường gần với chim hạc, - Cái chén vượt qua (sông biển) không làm cho chim âu sợ hãi. - Giống như được đi trên đường núi Lô, - Theo thầy Huệ Viễn rong chơi thật sự. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

ĐỀ BÀI THƠ NƠI VÁCH
PHÒNG THIỀN SƯ HUYỀN VŨ.

Năm nào ông Cố hổ đầu,
Đầy tràn cảnh vẽ Thương Châu trên tường!
Mặt trời đỏ ,khí đá rừng,
Trời xanh sông biển theo dòng nước trôi.
Trượng bay thường hạc gần thôi!
Chim âu chẳng sợ khi bôi vượt dòng.
Núi Lô như được đi đường,
Theo thầy Huệ Viễn rong chơi thật rồi!

Chú thích:

- Cố hổ đầu 顧虎頭: tức Cố Khải Chí, người nước Tấn bên Trung Hoa, làm quan võ được phong chức “Hổ đầu 虎頭”. Ông rất giỏi hội họa và thơ văn. Chức Hổ đầu thường dành cho các tướng lĩnh hay thống quản các đội quân của triều đình. Ở nước ta, theo cuốn Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ 欽定大南會典事例, thời nhà Nguyễn nước ta, chức Hổ đầu kèm theo áo mũ (hổ đầu quan 虎頭冠) thường dành cho hàng tam phẩm trở lên.
- Thương Châu 滄州: thường được dùng để nói về nơi ở của các ẩn sĩ, xa lánh cuộc đời phiền toái,sống cuộc sống an nhiên tự tại....
- tích phi 錫飛: tích: tiếng gọi tắt của chữ “tích trượng “ là chiếc gậy của các sư, các tỳ kheo khi đi khất thực. Truyền thuyết trong nhà Phật bên Trung Hoa thường kể các câu chuyện các tổ hay các sư đạt đạo có thể dùng tích trượng để bay (tích phi) qua núi non hay sông biển. Thiền tông Trung Hoa thường kể chuyện ngài Đạt Ma sư tổ, người được tuyên xưng là vị sơ tổ thứ nhất của dòng Thiền Trung Hoa đã từ bên Ấn Độ dùng chiếc dép “đông độ”, sang phía đông để xiển dương chính pháp.
- thường cận hạc 常近鶴: nhà thơ có lẽ muốn nói giữa “tích phi” của các thiền sư và “chim hạc” biểu tượng của các đạo sĩ rất gần nhau ở tư tưởng vượt thoát, sống gần gũi với thiên với tinh thần ung dung tự tại... v.v... Chỉ có mảnh đất Trung Hoa mới có thể dung hợp tư tưởng Thiền tông và tinh thần Lão Trang mở ra một trường phái Thiếu Lâm dần dà ăn sâu vào đời sống tinh thần của Trung Hoa với cách sống và thâm ngộ đạo Phật rất thực tế và gần gũi với tâm hồn Đông Phương hơn.
- bôi độ 杯渡: cái bôi hay cái chén uống trà có thể ngồi trên như chiếc thuyền (hay chiếc dép của sơ tổ thiền tông Bồ Đề Đạt Ma đi từ Ấn độ qua Trung Hoa truyền ý chỉ Thiền tông- xem C.T. trên) để vượt dòng qua bờ bên kia.
- Lô Sơn 廬山: xem các C.T. về Lô Sơn (Lư Sơn) trong các bài thơ chuyển dịch Tô Đông Pha gần đây.
- Huệ Viễn 惠遠: vị cao tăng cùng thời với Cố Khải Chí, tu trên Lô Sơn.

Bài 99

THẬP THẤT DẠ ĐỐI NGUYỆT                                             十七夜對月

Thu nguyệt nhưng viên dạ,                                                        秋月仍圓夜,
Quyển liêm hoàn chiếu khách,                                                   卷簾還照客,
Ỷ trượng cánh tùy nhân.                                                            倚杖更隨人。
Giang thôn độc lão thân.                                                            江村獨老身。
Quang xạ tiềm cầu động,                                                           光射潛虯動,
Minh phiên túc điểu tần.                                                            明翻宿鳥頻。
Mao trai y quất dữu,                                                                   茅齋依橘柚,
Thanh thiết lộ hoa tân,                                                               清切露華新。
(Năm 767)

Dịch nghĩa:

Ban đêm, trăng thu vẫn tròn, - Thân già lẻ loi nơi xóm bên sông. –Cuốn rèm, (trăng) vẫn còn soi chiếu khách, - Chống gậy (đi), (trăng) càng đi theo bên người! (c.1-4)
Ánh sáng chiếu xuống làm cho con cầu long đang ẩn kín phải động đậy! – Ánh sáng đi qua nhiều lần chỗ chim nghỉ lại đêm! – Phòng sách mái cỏ dựa vào cây quít ,cây bưởi, - Gần gũi với sự trong trẻo, hạt sương móc như một bông hoa mới mẻ. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGẮM TRĂNG ĐÊM MƯỜI BẢY.

Đêm thu trăng vẫn đương tròn,
Thân già ở xóm bên sông một mình.
Vẫn còn soi khách cuốn rèm,
Đi ra chống gậy theo bên với người.
Cầu long động đậy sáng soi!
Sáng qua chỗ trú chim ngơi nhiều lần!
Nhà tranh, quýt bưởi dựa gần,
Móc sương hoa mới trong ngần kề nhau.

Chú thích:

- nhưng 仍: nhưng, vẫn, như cũ, luôn luôn...
- hoàn chiếu khách 還照客: vẫn còn soi chiếu người khách (ở trọ)....
- cánh tùy nhân 更隨人: càng (cánh) đi theo với người (tùy nhân)...
- tiềm cầu động 潛虯動: con cầu long (cầu: loại rồng có sừng) đang ẩn dấu(tiềm) cũng bị lay động (động)...
- minh phiên 明翻: ánh sáng vượt qua, đi qua...
- túc điểu tần 宿鳥頻: con chim nghỉ lại đêm (trên cành cây) thấp thỏm nhiều lần(tần)
- thanh thiết 清切: gần gũi, kề bên (thiết) sự trong trẻo (thanh)....
- lộ hoa tân 露華新: sương móc (lộ) tụ đầu ngọn lá trong suốt (thanh) tựa như một đóa hoa mới...

Bài 100

CỬU KHÁCH                                                                            久客

Ky lữ tri giao thái,                                                                      羈旅知交態,
Yêm lưu kiến tục tình.                                                               淹留見俗情。
Suy nhan liêu tự sẩn,                                                                  衰顏聊自哂,
Tiểu lại tối tương khinh.                                                             小吏最相輕。
Khứ quốc ai Vương Xán,                                                           去國哀王粲,
Thương thì khốc Giả sinh.                                                         傷時哭賈生。
Hồ ly hà túc đạo,                                                                        狐狸何足道,
Sài hổ chính tung hoành.                                                            豺虎正縱橫。
(năm 768)

Dịch nghĩa:

Ở trọ mới biết được thói đời, - Ở lâu thấy được tình đời,tình người! –
Cười mình vẻ mặt suy kém! – Tên lại nhỏ rất coi khinh người. (c.1-4)
Vương Xán buồn sầu rời nước ra đi! – Giả Nghị khóc thương cho thời thế! – Chồn cáo vì sao nhiều quá trên đường cái?! – Giữa lúc này, sói cọp đang ngang dọc! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

Ở LÂU NƠI ĐẤT KHÁCH.

Thói đời ở trọ biết thôi!
Ở lâu tình cảm con người thấy ngay!
Cười mình vẻ mặt tàn phai,
Những tên lại nhỏ rất hay khinh người!
Buồn sầu Vương Xán đi rồi,
Giả sinh thương khóc cho thời của ông.
Sao đường đầy rẫy cáo chồn?!
Những loài sói cọp đang còn dọc ngang!

Chú thích:

- ky lữ 羈旅: ở nơi quán trọ quê người ,gắn liền hay bám giữ quán trọ, thân ở trọ lâu ngày...
- giao thái 交態: tiếp xúc, giao tiếp nên hiểu nhiều về thói đời, thái độ sống của kẻ khác...
- yêm lưu 淹留: ngâm lâu trong dòng nước đọng. Ở lại một nơi lâu dài....
- tục tình 俗情: thói tục và tình cảm người đời ....
- suy nhan 衰顏: vẻ mặt suy kém, tàn tạ...
- liêu tự sẩn 聊自哂: hãy tạm, tạm thời (liêu) tự cười với chính mình (tự sẩn)....
- tiểu lại 小吏: những sai nha, chức việc nhỏ bé, làm việc vặt trong dinh phủ các uan...
- tối tương khinh 最相輕: rất (tối) xem, nhìn, coi kẻ khác hay người giao tiếp (tương:xem, coi, với nhau, cùng nhau, lẫn nhau...) nhẹ (khinh)... Rất xem nhẹ kẻ khác....
- khứ quốc ai 去國哀: rời nước ra đi với sự đau buồn...
- Vương Xán 王粲: người đời Tam quốc bên Trung Hoa (177-217), tự là Trọng Tuyên 仲宣 giỏi văn thơ và rất có tiếng trong nhóm Kiến An thất tử cuối thời Đông Hán 東漢. ( Ông quê Cao Bình ,Sơn Dương (nay là huyện Trâu, Sơn Đông, Trung Hoa). Năm 17 tuổi được tiến cử giữ chức Hoàng Môn Thị lang.
Lúc Hán Hiến đế(189-220) do loạn lạc phải dời đô sang phía tây. Vương Xán cũng rời Trường An đến Kinh Châu lánh nạn ở nhà Lưu Biểu (142-208) cùng hoàng tộc nhà Hán.Lưu Biểu mất, Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, Vương Xán lại chịu ra làm quan cho họ Tào giữ chức Thị trung lúc mới 32 tuổi. Năm 216, Xán theo quân đi đánh nước Đông Ngô. Qua năm sau khi trở về thành Nghiệp, giữa đường bị mất lúc mới 40 tuổi. Tác phẩm còn lại được sưu tập của ông gồm thi ,phú nghị luận, trong đó có các bài như: Thất ai thi, Tòng quân thi,
Đăng lâu phú.., v.v... được lưu truyền và được nhiều người biết đến...
- Giả sinh 賈生: tức Giả Nghị 賈誼 (200-169 TCN),giỏi thi phú,văn nghị luận từng giữ chức Thái Trung Đại phu 太中大夫 thời Tây Hán. Giả Nghị chủ trương cải cách nhưng bị các quan trong triều đố kỵ gièm pha nên bị giáng chức ra làm Thái phó cho Trường Sa vương (nay là Hà Nam).Khi Lương Hoài vương bị ngã ngựa mất đi, ông buồn bã sinh bệnh ,một năm sau qua đời lúc còn trẻ mới 31tuổi.
- túc 足: chân người hay loài thú, đầy đủ, dồi dào, nhiều, bước đi ,có thể...
- chính 正: ở giữa, lúc này, đúng lúc, ngay thẳng, chính đáng....

(Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - Bài 101, 102 và103)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét