Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Thời Kỳ Sau Khi Bị Tù Oan Muốn Lui Về Ẩn Dật (Khoảng 1429 - 1437)

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - THỜI KỲ SAU KHI BỊ TÙ OAN MUỐN LUI VỀ ẨN DẬT (KHOẢNG 1429 - 1437)
Thầy Dương Anh Sơn

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI THỜI KỲ SAU KHI BỊ TÙ OAN MUỐN LUI VỀ ẨN DẬT (Khoảng 1429-1437)

Bài 68

HỌA HỮU NHÂN YÊN HÀ NGỤ HỨNG KỲ TAM            和 友 人 煙 霞 寓 興 期 三

Mão ốc tam gian dã thủy nha (nhai)                                          茆屋三間野水涯,
Thiếu niên bác lạc cựu phân hoa.                                               少年剝落舊紛華.
Đắc an phận xứ nhưng tùy phận,                                               得安分處仍隨分,
Vị xuất gia thì thả trú gia.                                                          未出家時且駐家.
Hạm lý vân sơn vô sủng nhục,                                                   檻裏雲山無寵辱,
Thành trung hiên miện tổng trần sa.                                          城中軒冕總塵沙.
Cát ông nhất khứ kim thiên tải,                                                  葛翁一去今千載,
Đan táo hàn yên tuế nguyệt xa.                                                  丹灶寒煙歲月賒.

Dịch nghĩa:

Ba gian nhà lợp cỏ tranh ở ven bờ nước trong cánh đồng, – Đã tách rời cảnh phồn hoa cũ của tuổi niên thiếu. - Được chốn yên phận phải tùy vào phận – Chưa đi ra cuộc đời(giúp vua,trị nước) cứ ở tạm nhà này. (c.1-4)
Chẳng có vinh và nhục, ở ngoài lan can chỉ có mây núi – Mũ và xe cộ trong thành cả thảy đều là cát bụi – Cát ông đi được đến nay cả ngàn năm - Bếp luyện thuốc khói lạnh lẽo, năm tháng đã xa xôi. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

HỌA BÀI THƠ “CẢM HỨNG GỬI KHÓI MÂY
VÀ RÁNG TRỜI” CỦA BẠN (Bài 3)

Ba gian ven nước nhà tranh,
Phồn hoa tấp nập, tuổi xanh cách rời.
Được yên phận vẫn tùy nơi
Chưa ra, hãy tạm ở thôi nhà này!
Nhục, vinh ngoài ngõ: núi, mây.
Mũ, xe bụi cát đều đầy thành trong.
Ngàn đời đi mãi Cát ông,
Tháng năm bếp thuốc lạnh lùng mờ xa.

Chú thích:

- mão ốc 茆屋: nhà làm bằng cỏ tranh. (mão: rau thuần cùng một nghĩa với chữ mao 茅: cỏ tranh).
- dã thủy nhai 野水涯: ở ven bờ nước của cánh đồng hoang (dã: cánh đống, đồng nội, quê mùa, chất phác, hoang dã, bờ cõi, rất...).
- bác lạc 剝落: hư hỏng, rơi rụng, tách rời.
- phân: 紛: tấp nập, hỗn tạp, phồn tạp rối ren, tua cờ... 紛華 Phân hoa nghĩa như phồn hoa 繁華, chỉ nơi đô hội nhưng phức tạp.
- nhưng 仍: vẫn như cũ, luôn mãi.
- tùy phận 隨分: đi theo cái phận, tức theo hoàn cảnh sinh sống của mình.
- xuất 出: ngày trước các nhà nho vẫn quan niệm khi còn đi học hoặc là học trò nghèo ráng học đỗ đạt ra làm quan giúp vua trị nước(xuất); khi không gặp thời hoặc về già về ở ẩn (xử 處). Người chưa gặp thời, chưa đậu đạt làm quan gọi là “xử sĩ 處士”
- hiên miện 軒冕: chỉ chung xe ngựa của các quan hoặc chỉ người làm việc quan.
- tổng 總: hết thảy đều rốt lại.
- hạm lý檻裏: nằm trong cái lan can rào ven nhà ở lưng núi.
- sủng nhục 寵辱: những ân huệ, vinh hiển vẻ vang, được ân sủng, yêu mến (sủng) và nỗi nhục nhã, tủi nhục (nhục) trong chốn quan trường....
- hiên miện 軒冕: xe có rèm che (hiên)của các quan thuộc hàng đại phu có mũ đội đầu (miện) ngày xưa hay các bậc trưởng giả giàu sang và uy quyền...
- Cát ông 葛翁: tức Cát Hồng, nhà luyện linh đơn tìm thuốc trường sinh của Trung Hoa thời xưa.
- đan táo 丹灶: đan tức đan sa 丹砂 hay còn gọi là chu sa 朱砂 màu đỏ để tạo mùi trong việc làm thuốc bên Trung Hoa thời xưa, được nấu, chế biến trên lò bếp (táo)
- xa 賒: xa xôi, dần xa, chậm rãi.

Bài 69

TỐNG TĂNG ĐẠO KHIÊM QUY SƠN                                送 僧 道 謙 歸 山
  
Ký tằng giảng học thập dư niên,                                                記曾講學十餘年,
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên.                                         今又相逢一夜眠.
Thả hỷ mộng trung phao tục sự,                                                且喜夢中拋俗事,
Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên                                   更尋石上話前緣.
Minh triêu Linh Phố hoàn phi tích,                                            明朝靈浦還飛錫,
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền.                                           何日崑山共聽泉.
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã,                                            老去狂言休怪我,
Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền.                                          臨岐我亦上乘襌.

Dịch nghĩa:

Nhớ từng dạy học đã hơn mười năm – Nay gặp lại nhau cùng ngủ một đêm - Mừng vui trong giấc mộng, quên đi những việc trần tục - Lại tìm lên trên (núi) đá nói chuyện về những duyên nghiệp từ trước. (c.1-4)
Sáng sớm mai, chiếc gậy sẽ bay về lại nơi Linh Phố - Biết ngày nao cùng nghe tiếng suối ở Côn Sơn? - Tuổi già đến, chớ lạ những lời cuồng ngông của ta - Gặp khi, ta cũng sẽ theo chiếc xe thiền lớn!.(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

TIỄN SƯ ĐẠO KHIÊM VỀ NÚI.

Nhớ từng dạy học mười năm,
Bây giờ gặp lại cùng nằm một đêm.
Mừng trong mộng, chuyện đời quên,
Lại tìm trên đá nói duyên trước nào.
Gậy bay Linh Phố sớm sau,
Côn Sơn suối chảy ngày nao nghe cùng!
Ta già, chớ lạ lời ngông!
Gần non ta cũng ruổi rong xe thiền.

Chú thích:

- giảng học 講學: bàn luận, thuyết giảng việc học, dạy học.
- phao 拋: ném đi, bỏ đi, quên đi.
- Linh Phố 靈浦: bến sông ở Chí Linh (Hải Dương), ở bên trái sông Lục Đầu, Bắc Việt Nam.
- phi tích 飛錫: gậy của các thiền sư đạt đạo, tương truyền có thể dùng để cưỡi bay đi như Bồ Đề Đạt Ma, thiền tổ thứ nhất của Thiền tông Trung Hoa theo truyền tụng, đã dùng dép làm bè qua sông. Tích : gậy “tích trượng 錫杖” hay “tầm xích” có tra các vòng bằng đồng dùng cho các tỳ kheo đi khất thực, nghĩa khác: cho, ban thưởng, vải nhỏ, thiếc mỏng để tráng kim loại..
- Côn Sơn 崑山: núi nằm ở huyện Chí Linh, Hải Dương nơi Trúc Lâm thiền sư (vua Trần Nhân Tôn) từng dựng am ở đây. Lý Đạo Tái từ quan về trụ trì chùa Ân Tứ, trở thành Huyền Quang thiền sư rất nổi tiếng. Tư Đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi can gián Hồ Quý Ly không được cũng về ở ẩn chốn này. Và Nguyễn Trãi, về sau cũng xin về nghỉ ngơi tại Côn Sơn này.
- hưu quái休怪: chớ lấy làm lạ, chớ nên lạ lùng.
- lâm 臨: kịp, tới, sát, gần kề..
- kỳ 岐: (bộ sơn) núi quanh co, hiểm trở, đường rẽ, núi Kỳ (Kỳ Sơn 岐山)ở vùng Thiểm Tây, Trung Hoa. Cũng viết là 崎
- thượng thừa thiền 上乘襌: “xe lớn” của thiền đạo chở nhiều hơn, với tư tưởng rộng rãi hơn, thông thoáng và phá chấp hơn so với quan niệm tu học và đạt đạo của “tiểu thừa thiền”. “Thượng thừa thiền” là một nhánh của Phật Giáo “đại thừa” (cỗ xe lớn) lấy pháp tu Thiền để trực ngộ cốt tủy của đạo Phật với tinh thần phá chấp và tánh không làm nền tảng... Trong khi tông phái “tiểu thừa” đi theo những phương pháp tu học theo tinh thần của đạo Phật nguyên thủy, chú trọng việc giữ giới và đi theo các lời dạy của Đức Phật từng bước một thấy lẽ đạo. “Tiểu thừa thiền” tuy mang tinh thần Thiền tông nhưng vẫn còn những câu chấp, nặng nề giáo luật........

Bài 70

HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM KỲ NHẤT                       海 口 夜泊 有 感 期 一

Hồ hải niên lai hứng vị lan,                                                        湖海年來興未闌,
Càn khôn đáo xứ giác tâm khoan.                                              乾坤到處覺心寬.
Nhãn biên xuân sắc huân nhân túy,                                            眼邊春色薰人醉,
Chẩm thượng triều thanh nhập mộng hàn.                                 枕上潮聲入夢寒.
Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch,                                           歲月無情雙鬢白,
Quân thân tại niệm thốn tâm đan                                               君親在念寸心丹.
Nhất sinh sự nghiệp thù kham tiếu                                            一生事業殊堪笑,
Doanh đắc phù danh lạc thế gian.                                              贏得浮名落世間.

Dịch nghĩa:

Hứng thú biển hồ mấy năm lại đây vẫn chưa tàn, - Đến chốn nào trong trời đất, lòng vẫn khoan thai, ung dung .– Dáng vẻ mùa xuân như xông vào bên mắt khiến người say đắm, – Trên gối, tiếng thủy triều đi vào giấc mộng lạnh căm. (c.1-4)
Tháng năm hờ hững, hai mái tóc đã bạc, - Tấm lòng son vẫn nghĩ đến (ơn) vua và cha mẹ. - Sự nghiệp một đời người đáng cười thay! - Chỉ lời được cái danh suông trôi nổi rơi rớt trong cuộc đời. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CẢM HỨNG ĐÊM GHÉ THUYỀN ĐẬU Ở CỬA BIỂN (Bài 1)

Biển hồ hứng vẫn chưa phai,
Đất trời chốn đến khoan thai lòng này.
Sắc xuân xông mắt đắm say,
Tiếng triều dâng gối, mộng bày lạnh tăm.
Hững hờ tóc bạc tháng năm,
“Quân, thân” son sắt nghĩ nằm lòng thôi.
Đáng cười sự nghiệp một đời,
Cõi người rơi rụng được lời danh suông.

Chú thích:

- hứng vị lan 與未闌: hứng vẫn chưa tàn phai (lan: sắp hết, sắp tàn...)
- giác tâm khoan 覺心寬: thấy được cõi lòng rộng lớn, khoan thai.
- huân 薰: cỏ thơm, xông khói, hòa vui, hương sắc, mùi vị xông lên...
- thân 親: bản thân mình, cha mẹ; người thân, đền, tấm lòng thành thật, yêu quý.
- quân thân 君親: đạo làm người theo quan niệm thời xưa ở Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Cao Ly do ảnh hưởng Khổng giáo: trên thờ vua, dưới hiếu với cha mẹ (thân).
- thốn tâm đan 寸心丹: tấc lòng son.
- thù kham tiếu 殊堪笑: đáng chịu tiếng cười, rất nên nhận chịu tiếng cười.
- doanh 贏: lời lãi, dư thừa, quá lắm.
- phù danh 浮名: danh tiếng suông, không thực. (Sách do Đ.D.A. hiệu đính dùng chữ “phù sinh 浮生” nghĩa là cuộc sống trôi nổi, không ổn định; cũng có bản dùng chữ “hư danh 虛名” nghĩa là danh suông tiếng tăm rỗng tuếch, tương tự nghĩa của “phù danh”.)

Bài 71

HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM KỲ NHỊ                           海 口 夜泊 有 感 期 二

Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,                                                 一別江湖數十年,
Hải môn kim tịch hệ ngâm thuyền.                                            海門今夕繫吟船.
Ba tâm hạo diễu thương châu nguyệt,                                        波心浩渺滄洲月,
Thụ ảnh sâm si tự phố yên.                                                        樹影參差漵浦煙.
Vãng sự nan tầm thì dị quá,                                                       往書難尋時易過,
Quốc ân vị báo lão kham liên.                                                   國恩未報老堪憐.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,                                                平生獨袍先憂念,
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên                                                  坐擁寒衾夜不眠.

Dịch nghĩa:

Một lần giã biệt sông hồ đã mấy mươi năm, – Đêm nay neo chiếc thuyền thơ nơi cửa biển. - Giữa lòng nước rộng lớn, ánh trăng bày mênh mông trên bãi, – Bóng cây nhấp nhô ở bến sông có khói phủ.(c.1-4)
Chuyện xưa khó tìm, thời gian trôi qua dễ dàng, – Thương cho tuổi đã già mà ơn nước chưa đền. - Vẫn thường riêng mình ôm lấy “cái lo là lo trước”, - Ngồi ôm chiếc chăn lạnh lẽo, suốt đêm không ngủ được. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CẢM HỨNG ĐÊM GHÉ THUYỀN ĐẬU CỬA BIỂN (Bài 2)

Mười năm giã biệt sông hồ,
Giờ neo cửa biển thuyền thơ đêm này.
Lòng sông, bãi rộng trăng bày,
Nhấp nhô bến nước bóng cây khói vời.
Chuyện xưa tìm khó, ngày trôi,
Chưa đền ơn nước, xót người tuổi cao.
Một đời “lo trước” giữ vào,
Ôm chăn ngồi thức đêm thâu lạnh lùng!

Chú thích:

- hệ ngâm thuyền 繫吟船: buộc dây neo lại (hệ) chiếc thuyền thơ (ngâm: ngâm thơ, ngâm vịnh).
- ba tâm 波心: giữa lòng sông.
- hạo diễu 浩渺: rộng lớn và xa xôi.
- thương châu 滄洲: bãi sông rộng (滄 thương: mênh mông, lạnh rét, bể khơi...).
- sâm si 參差: nhấp nhô, so le.
- tự phố 漵浦: bến sông(Theo bản Đ.D.A). Có bản lại ghi “phố tự” (xem: thiviet.net)
- bão tiên ưu niệm 袍先憂念: ôm trước cái lo nghĩ(ưu) cần ghi nhớ (niệm) (do câu: tiên ưu, hậu lạc – lo là lo trước, hưởng phải hưởng sau. Đó là một quan niệm của người quân tử khi ra làm việc cho dân, cho nước ngày xưa. Phạm Trọng Yêm trong “Nhạc Dương Lâu Ký” có câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc hậu lạc 先天下之憂而憂,後天下之樂而樂, nghĩa là: Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, gọi tắt là “tiên ưu hậu lạc”); bão: ôm vào, giữ hoặc mang lấy.
- ủng hàn khâm 擁寒衾: (ủng): ôm, che đậy, ôm chăn lạnh (khâm).

(Lần tiếp theo: ỨC TRAI THI TẬP của NGUYỄN TRÃI – Bài 72, 73, 74 và 75)

Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét