THƠ CỦA LÝ BẠCH - BÀI 124, 125 VÀ 126
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CỦA LÝ BẠCH
Bài 124
VỌNG THIÊN MÔN SƠN 望天門山
Thiên Môn trung đoạn Sở Giang khai, 天門中斷楚江開,
Bích thuỷ đông lưu hướng bắc hồi. 碧水東流向北回 。
Lưỡng ngạn thanh sơn tương đối xuất, 兩岸青山相對出,
Cô phàm nhất phiến nhật biên lai. 孤帆㇐片日邊來。
Dịch nghĩa:
Núi Thiên Môn bị đứt ở giữa,mở ra sông Sở, - Dòng nước biếc chảy về phía đông quay rồi quay hướng về phía bắc. – Hai bờ núi xanh cùng hiện ra hướng về nhau, - Một mảnh buồm lẻ loi đến ở bên trời.
Tạm chuyển lục bát:
TRÔNG VỀ NÚI THIÊN MÔN.
Mở ra sông Sở - Thiên Môn,
Về đông nước biếc quay dòng bắc xuôi.
Đôi bờ núi thắm sóng đôi,
Buồm đơn một mảnh bên trời đến đây!
Chú thích:
- Thiên Môn 天門: núi “Cổng trời” thuộc huyện Đương đồ, An Huy, Trung Hoa.
- Sở Giang 楚江: con sông nằm trong vùng nước Sở thời xa xưa nay thuộc phủ Hoài An, Giang Tô ( Nước Sở xưa bên Trung Hoa là một chư hầu của Nhà Chu thời Xuận Thu trải dài từ vùng Hồ Nam lên Hồ Bắc và Giang Tô)...
- hướng bắc hồi: quay trở lại hướng về hướng bắc... Có bản trong câu này ghi là: “Bích thủy đông lưu chí thử hồi 碧水東流至此迴” nghĩa là : Dòng sông nước biếc chảy xuôi về hướng đông đến nơi đây quay trở lại (xem: <thuvien.net/Lý Bạch>)
- lưỡng ngạn 兩岸: hai bên bờ, đôi bờ...
- hướng bắc hồi 向北回: quay trở lại hướng về hướng bắc...
- tương đối xuất 相對出: hướng về nhau , đối mặt nhau... v.v... để hiện ra hay mở ra...
- cô phàm 孤帆: cánh buồm nhỏ lẻ loi, chiếc thuyền nhỏ một mình....
- nhật biên 日邊: ở bên trời, phía chân trời...
Bài 125
THIẾP BẠC MỆNH 妾薄命
Hán đế trọng A Kiều, 漢帝重阿嬌,
Trữ chi hoàng kim ốc. 貯之黃金屋。
Khái thoá lạc cửu thiên, 咳唾落九天,
Tuỳ phong sinh châu ngọc. 隨風生珠玉。
Sủng cực ái hoàn yết, 寵極愛還歇,
Đố thâm tình khước sơ. 妒深情卻疏。
Trường Môn nhất bộ địa, 長門㇐步地,
Bất khẳng tạm hồi xa. 不肯暫回車。
Vũ lạc bất thướng thiên, 雨落不上天,
Thuỷ phúc trùng nan thâu. 水覆重難收。
Quân tình dữ thiếp ý, 君情與妾意,
Các tự đông tây lưu. 各自東西流。
Tích nhật phù dung hoa, 昔日芙蓉花,
Kim thành đoạn căn thảo. 今成斷根草。
Dĩ sắc sự tha nhân, 以色事他人,
Năng đắc kỷ thời hảo. 能得幾時好。
Dịch nghĩa:
Vua Hán xem trọng A Kiều, - Cho ở trong phòng dát vàng. – Tiếng ho
hay khạc nhổ rơi vào chín tầng trời cao! – Thuân theo gió sinh ra (những lời) châu ngọc! (c.1-4)
Yêu thương chiều chuộng tột cùng rồi trở lại không còn gì hết! – Ghét bỏ mối tình (từng) sâu đậm rồi lui về xao nhãng nó. – Một bước là đến cung Trường Môn, - Cũng không chịu quay xe chốc lát! (c.5-8)
Mưa rơi không lên trời (được nữa)! – Nước đã đổ xuống nhiều lần
khó thâu hồi (trở lại)! – Tình chàng cùng với ý thiếp, - Đều như nước chảy (theo hai hướng) đông tây. (c.9-12)
Ngày xưa là đóa hoa sen, - Nay đã thành cây cỏ đã bị đứt rễ. – Dùng
sắc đẹp để làm việc cho người khác, - Có thể được bao nhiêu thời tốt
đẹp?! (c.13-16)
Tạm chuyển lục bát:
NGƯỜI THIẾP PHẬN BẠC.
A Kiều, vua Hán trọng nàng,
Nhà làm cho ở dát vàng quý sao!
Khạc ho rơi chín tầng cao,
Nương theo làn gió sinh nào ngọc châu!
Yêu nhiều rồi lại thôi mau,
Ghét ghen càng đậm,tình màu nhạt phai.
Trường Môn một bước đất này,
Há sao chốc lát không quay xe nào!
Mưa rơi chẳng hướng trời cao!
Nước đà đổ xuống thâu vào khó thay!
Tình chàng cùng ý thiếp rày,
Đều như nước chảy đông tây xuôi dòng.
Ngày xưa là đóa phù dung,
Nay thành rễ cỏ lìa không còn rồi!
Bởi đem nhan sắc cho người,
Những khi tốt đẹp được thời bao lâu?!
Chú thích:
** Đây là một trong những bài thơ của Lý Bạch được xếp vào thể loại nhạc phủ 樂府, có trong “Nhạc phủ thi tập” (mục Tạp khúc ca từ). Nhạc phủ là tên gọi của của một bộ phận lễ nhạc do Hán Vũ đế lập ra (khoảng 141-87 TCN) giao cho Lý Diên Niên làm nhiệm vụ thu thập ca dao và thi phú để phổ nhạc sử dụng trong triều đình. Đặc biệt là “dân ca” được sử dụng rộng rãi trong nhạc phủ vì mang nhiều tố chất gần gũi với âm nhạc.
Còn thơ, những bài thơ nào có thể phổ nhạc ,hợp với phong cách âm nhạc triều đình mới được xếp vào loại nhạc phủ. Đồng thời, các bài “dân ca” thời nhà Hán (206 TCN-220 SCN) và thời Lục triều (220-581 SCN) được gọi là nhạc phủ. Về hình thức, theo học giả Nguyễn Hiến Lê ,nhạc phủ tổng quan có hai loại: 1./ Loại lấy từ thể thơ thất ngôn với 7 chữ có các chữ “hề 兮” để làm trợ ngữ (đưa đẩy,biểu thị cảm thán,khen ngợi hay khẳng định ..) thường đặt giữa hay cuối câu chịu ảnh hưởng từ bài “Sở Từ” của Khuất Nguyên mang âm hưởng phương Nam 2./ Loại có gốc thơ ngũ ngôn 5 chữ ảnh hưởng từ “Kinh Thi” mang âm hưởng phương Bắc của thời nhà Hán hay Lục Triều bên Trung Hoa .Cũng theo Nguyễn Hiến Lê, lời trong nhạc phủ thường rõ ràng,ý tứ chân thành và người nghe dễ cảm khác với thể “phú” thường chọn lọc và đẽo gọt câu chữ... (xem thêm: Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) – XB lần 1, 1955, Đại cương văn học sử Trung Quốc , NXB Trẻ Tái bản, Saigon 1997)
- thiếp 妾: tiếng xưng hô của người phụ nữ xưa kia trong xã hội trung Hoa, cũng chỉ nàng hầu, vợ lẽ...
- bạc mệnh 薄命: số mệnh hay số phận bạc bẽo, mỏng manh, hẩm hiu, bị coi nhẹ...
- A Kiều 阿嬌: a: tiếng đặt trước tên gọi với quan hệ gần gũi, thân mật, bờ nước, bên cạnh, cột nhà, gò lớn, chân núi...; Kiều: mềm mại, đáng yêu, xinh xắn. A Kiều là tiếng chỉ người con gái xinh đẹp, đáng yêu...
- trữ chi: đã cất giữ, đã tích chứa, để vào...
- khái thóa 咳唾: ho (khái) và nhổ nước bọt (thóa)...
- sủng cực ái 寵極愛: chiều chuộng (sủng) và yêu thương tột bực (cực ái)...
- hoàn yết 還歇: trở lại không còn gì hết cả...
- đố thâm tình 妒深情: chán ghét tình cảm đã sâu đậm...
- khước sơ 卻疏: lui về (khước) xao nhãng, không còn gần gũi (sơ)...
- Trường Môn 長門: tên một cung dành cho hoàng hậu A Kiều khi bị Hán Vũ đế không còn sủng ái cho ra ở nơi này. Khi Hán Vũ đế còn nhỏ, có bà công chúa lớn hỏi rằng: ’Có muốn lấy vợ không?”. Khi ấy Vũ đế chỉ vào nàng A Kiều nói rằng: ” Nếu lấy được A Kiều sẽ đúc nhà vàng cho nàng ở!” Lớn lên, vua Hán lấy A Kiều tôn làm hoàng hậu nhưng về sau không còn yêu quý nữa, bị biếm ra ở cung Trường Môn” (Tư liệu: Trần Trọng San, Thơ Đường, Bắc Đẩu XB lần 2, Saigon, 1972, tr.53)
- nhất bộ địa ㇐步地: một bước là đếnchỗ hay khu vực, đấtđai...
- bất khẳng 不肯: há sao không chịu..., không vui lòng...
- tạm: chốc lát, tạm thời, không lâu, bỗng, vừa, mới hãy cứ...
- thủy phúc 水覆: nước đã đổ xuống, nước đã đổ đi...
- trùng 重: âm của “trọng”: nhiều lần, chồng chất, lập đi lập lại....
- đoạn căn thảo 斷根草: cây cỏ đã bị cắt lìa rễ....
- sự tha nhân 事他人: làm việc, phụng sự cho người khác....
- đắc kỷ thời hảo 得幾時好: được bao nhiêu thời gian tốt đẹp...
Bài 126
KHUÊ TÌNH 閨情
Lưu thuỷ khứ tuyệt quốc, 流水去絕國,
Phù vân từ cố quan. 浮雲辭故關。
Thuỷ hoặc luyến tiền phố, 水或戀前浦,
Vân do quy cựu san. 雲猶歸舊山。
Hận quân Lưu Sa khứ, 恨君流沙去,
Khí thiếp Ngư Dương gian. 棄妾漁陽間。
Ngọc trợ dạ thuỳ lưu, 玉箸夜垂流,
Song song lạc chu nhan. 雙雙落朱顏。
Hoàng điểu toạ tương bi. 黃鳥坐相悲,
Lục dương thuỳ cánh phan? 綠楊誰更攀。
Chức cẩm tâm thảo thảo, 織錦心草草,
Khiêu đăng lệ ban ban. 挑燈淚斑斑。
Khuy kính bất tự thức, 窺鏡不自識,
Huống nãi cuồng phu hoàn. 況乃狂夫還。
Dịch nghĩa:
Dòng nước chảy xuôi về nước xa xôi! – Mây trôi nổi giã từ chốn quan ải xưa cũ. – Có lẽ nước vẫn còn lưu luyến bến sông thuở trước, - Mây vẫn còn về lại dãy núi xưa. (c.1-4)
Giận chàng đi đến Lưu Sa, - Bỏ thiếp ở lại giữa Ngư Dương. – Đêm về, hàng đũa ngọc tuôn rơi! – Sóng đôi rơi xuống gương mặt hồng! (c.5-8)
Con chim màu vàng ngồi đau buồn cùng với người! – Cây dương liễu
xanh biếc ai sẽ thay thế để vịn vào? – Dệt gấm nhưng lòng lại rối bời, - Khêu ngọn đèn mà lệ chan hòa (nhìn) màu sắc hỗn tạp. (c.9-12)
Trộm nhìn gương, không nhận ra mình! – Huống hồ đến lúc anh chồng ngông cuồng trở về. (c.13-14)
Tạm chuyển lục bát:
TÂM TÌNH TRONG PHÒNG KHUÊ.
Nước xuôi mãi chốn xa xôi!
Giã từ ải cũ mây trôi lững lờ.
Bến xưa ,nước vẫn mong chờ,
Mây về non cũ thuở giờ chốn xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa!
Ngư Dương bỏ thiếp giữa là chốn đây.
Đêm đêm đũa ngọc tuôn đầy,
Mặt hồng rơi đẫm hai hàng sóng đôi.
Chim vàng sầu thảm cùng người,
Vịn thay dương liễu xanh tươi ai nào?!
Buồn lòng dệt gấm nhọc sao!
Khêu đèn, chan chứa lệ trào ướt mi.
Soi gương chẳng nhận mình chi!
Huống hồ về lại cuồng si ông chồng!
Chú thích:
- khuê: còn gọi là phòng the là chỗ ở của phụ nữ như “khuê phòng 閨
房” ,”khuê các 閨閣” ... v.v...
- tuyệt quốc 絕國: chỉ nơi chốn xa xôi tận cùng (tuyệt địa)...
- cố quan 故關: nơi quan ải biên giới có từ thời xưa cũ...
- thủy hoặc 水或: nước có khi, có lẽ, có thể (hoặc)...
- luyến 戀: luyến thương, mong nhớ, vương vấn, bịn rịn...
- tiền phố 前浦: bến sông, cửa sông (phố) xưa kia (tiền)...
- do 猶: vẫn còn, còn, ngõ hầu, cũng như, do, bởi, con do tựa như con khỉ...
- Lưu Sa 流沙: tên một con sông gần ải Ngọc Môn Quan tiếp giáp với vùng Tây Vực và Tân Cương. Đó là khu vực hiểm trở có nhiều sa mạc. Cuốn Tây Du Ký của tác giả Trung Hoa là Ngô Thừa Ân có nhắc đến tên con sông này. Trong Kinh Thi (Thi Kinh 書經 ) thiên Vũ Cống 禹貢 có đề cập địa danh Lưu sa ở về phía tây Trung Hoa: “Đông tiệm vu hải , tây bí vu Lưu sa 東漸于海, 西被于流沙 ” nghĩa là : phía đông dần ra đến vùng biển ,phía tây đến tới Lưu Sa. (bí là âm của bị có nghĩa là kịp đến, đến...)
- ngọc trợ 玉箸: chiếc đũa (trợ) ngọc là cách các nhà thơ nói đến hai hàng nước mắt tuôn chảy của người phụ nữ đẹp...
- thùy lưu 垂流: chảy buông xuống, chảy rơi xuống...
- chu nhan 朱顏 : gương mặt hồng, gương mặt của người phụ nữ đẹp...
- tương bi 相悲: cùng buồn sầu với nhau...
- lục dương 綠楊: cây dương màu xanh biếc tươi tốt...
- thùy cánh phan 誰更攀: ai là người (thùy) thay thế (cánh) để vịn cành (phan)...
- chức cẩm 織錦: dệt gấm một loại vải tốt có nhiều hoa văn và màu sắc sặc sỡ...
- thảo thảo 草草: rối bời, nhọc mệt, mệt mỏi, sơ sài, rậm rạp, tươi tốt.....
- lệ ban ban 淚斑斑: nước mắt tràn đầy khiến nhòa nhạt đôi mắt nhìn lẫn lộn, chứa chan, chan hòa....
- khuy 窺: liếc nhìn, nhìn trộm, rình mò, dòm ngó...
- bất tự thức 不自識: không nhận ra chính mình....
- huống nãi 況乃: cách để so sánh, huống chi, huống hồ...
- cuồng phu 狂夫: người chồng cuồng si, cuồng ngông hay rồ dại là cách nói thân mật của người phụ nữ Trung Hoa xưa khi nói về người chồng phải đi xa như đi lính thú, đóng quân ngoài biên ải... v.v.. [Xem bài “Đảo y thiên 搗衣篇” của Lý Bạch- (Bài 122) đã chuyển dịch có câu: “Cuồng phu do thú giao Hà Bắc 狂夫猶戍交河北”....]
(Lần đến: THƠ CỦA LÝ BẠCH – Bài 127, 128 và 129)
Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét