THƠ TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 47, 48 VÀ 49
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA
Bài 47
CẤP GIANG TIÊN TRÀ 汲江煎茶
Hoạt thuỷ hoàn tu hoạt thuỷ phanh, 活水還須活水烹,
Tự lâm điếu thạch cấp thâm thanh. 自臨釣石汲深清。
Đại biều trữ nguyệt quy xuân úng, 大瓢貯月歸春甕,
Tiểu thược phân giang nhập dạ bình. 小杓分江入夜瓶。
Tuyết nhũ dĩ phiên tiên xứ cước, 雪乳已翻煎處腳,
Tùng phong hốt tác tả thời thanh. 松風忽作瀉時聲。
Khô tràng vị dị câm tam oản, 枯腸未易禁三椀,
Ngoạ thính sơn thành trường đoản canh. 臥聽山城長短更。
Dịch nghĩa:
Nước sống đem về (từ nước con sông)cần phải đun sôi nấu chín, - Tự mình đến tảng đá (để ngồi) câu cá, múc nước chỗ nước sâu và trong lắng. – Chiếc bầu lớn để tích chứa vầng trăng mùa xuân trở về cất trong cái vò đựng nước, - Cái muỗng nhỏ chia nước sông vào chiếc bình trong đêm. (c.1-4)
Tuyết (tan) như sữa rồi, đổ nấu cô đặc lại đến chỗ còn ngấn nhỏ dưới chân, - Bấy giờ, gió cây tùng bỗng rót xuống làm nên những thanh âm. – Ruột khô cạn không dễ dàng chịu được ba chén ( trà), - Nằm nghe nơi thành ở núi (tiếng) đổi canh khi dài, khi ngắn. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
MÚC NƯỚC SÔNG NẤU TRÀ.
Đun sôi, nấu chín nước sông,
Chỗ câu đá nước trong lành dưới sâu.
Trăng xuân về chứa nơi bầu,
Đêm chan rót nước vào bình chia phân .
Tuyết cô đặc nấu còn chân,
Gió tùng chợt rót thanh âm bây giờ.
Chịu sao ba chén - ruột khô!
Ngắn dài, thành núi điểm giờ đổi canh.
Chú thích:
- cấp 汲: múc nước, kéo lên, dắt, cân nhắc, miệt mài, vội vàng, gấp gáp...
- tiên 煎: sắc nước cho cô lại, nấu nước, ngâm...
- hoạt thủy 活水: nước sống (nước chưa nấu chín) như nước sông, suối, nước giếng, nước mưa... v.v... lấy về để dùng...
- tu hoạt thủy phanh 須活水烹: hãy nên (tu) đun sôi nấu cho chín (phanh) nước sống (hoạt thủy)....
- điếu thạch 釣石: tảng đá để ngồi câu cá...
- cấp thâm thanh 汲深清: múc nước ở chỗ dưới sâu và trong lắng....
- đại biều 大瓢: cái bầu lớn làm từ vỏ quả bầu để khô...
- trữ nguyệt quy xuân 貯月 歸春: tích chứa hay tồn trữ, cất giữ vầng trăng (từ bóng in trên mặt nước!) trở về với mùa xuân...
- tiểu thược phân giang 小杓分江: dùng cái muỗng nhỏ (tiểu thược- cái thìa nhỏ) để chia nước sông ra (để vừa lượng nước nấu trà.)
- bình 瓶: cái bình hay chai, lọ để chứa nước hay thức ăn...
- tuyết nhũ: tuyết tan chảy từ từ còn pha màu sữa trắng (cũng được những người uống trà dùng để nấu cho sạch trong)...
- phiên tiên xứ cước 翻煎處腳: đổ vào (phiên) ấm đất để nấu cho chín và côđặc lại (tiên) chỉ còn (xứ) bằng ngấn nước dưới chân ấm (cước)...
- hốt tác tả thì thanh 忽作瀉時聲: bất ngờ, bỗng chốc(hốt)... làm nên (tác) những thanh âm (thanh) rót xuống (tả) lúc bấy giờ (thì)....
- vi dị câm tam oản 未易禁三椀 : không (vi) dễ gì (dị) chịu được(câm) ba chén (trà) nhỏ (tam oản)....
Bài 48
CỬU NGUYỆT NHỊ THẬP NHẬT 二十日微雪
VI TUYẾT HOÀI TỬ DO ĐỆ (KỲ NHẤT) 懷子由弟其㇐
Kỳ Dương cửu nguyệt thiên vi tuyết, 岐陽九月天微雪,
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm. 已作蕭條歲暮心。
Đoản nhật tống hàn châm chử cấp, 短日送寒砧杵急,
Lãnh quan vô sự ốc lư thâm. 冷官無事屋廬深。
Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu, 愁腸別後能消酒,
Bạch phát thu lai dĩ thướng trâm. 白髮秋來已上簪。
Cận mãi điêu cừu kham xuất tái, 近買貂裘堪出塞,
Hốt tư thừa truyện vấn tây sâm. 忽思乘傳問西琛。
Dịch nghĩa:
Kỳ Dương lúc tháng chín ,trời có tuyết nhẹ , - Đã làm cho lòng người ở những năm về già vắng lặng mòn mỏi! – Ngày ngắn, tiếng chày gấp gáp tiễn đưa cái lạnh! – Chức quan nhàn nhã, lương bổng ít ỏi, không việc vàng ở nơi căn nhà tranh ở sâu vào trong . (c.1-4)
Lòng buồn sầu sau khi chia tay chỉ có rượu để làm tan biến, - Tóc bạc trắng khi mùa thu đến đã cài trâm lên đầu. – Gần đây đã mua sắm áo điêu cừu để chịu được khi ra ngoài vùng biên tái, quan ải xa xôi! Bỗng nghĩ đến việc ngồi xe đưa đi hỏi đồ quý giá phía tây!
Tạm chuyển Lục bát:
NGÀY HAI MƯƠI THÁNG CHÍN
CÓ TUYẾT NHẸ ,NHỚ EM TỬ DO (Bài 1).
Kỳ Dương tháng chín tuyết rơi,
Làm cho hiu hắt lòng người cuối năm.
Chày đưa ngày ngắn lạnh căm,
Nhà tranh không việc quan nhàn chốn sâu!
Chia tay, với rượu tan sầu,
Cài trâm tóc trắng trên đầu thu sang!
Điêu cừu sắm chịu ải quan,
Phía tây đồ quý nghĩ rằng ruổi xe!
Chú thích:
** Bài 48 và 49 là hai bài thơ đề cập khá rõ nét về tình cảm của hai anh em dành cho nhau. Ngoài tình anh em cật ruột , tình cảm giữaTô Thức và Tô Triệt còn là tình bạn tương tri ,hiểu biết và quý trọng nhau. Bài thơ là nỗi niềm thương nhớ và những kỷ niệm gắn bó của hai anh em có chung những hoàn cảnh tương đối giống nhau khi làm quan gặp bao nhiêu chuyện khen chê đố kỵ trong triều đình rồi cùng
nhau bị biếm trích mỗi người một nơi và luôn thay đổi. Và trên hết là tình cảm thâm giao của hai anh em là tấm gương cho nhiều người...
- Tử Do 子由: là tên tự của Tô Triệt 蘇轍(1039-1112), em ruột của Tô Thức (tự là Tử Chiêm 子瞻, hiệu là Đông Pha Cư sĩ 東坡居士 hay Tô Đông Pha 蘇東坡 1037-1101), có cha là Tô Tuân 蘇洵 (1009-1066). Người đời gọi là “Tam Tô” đều đứng trong tám nhà văn ,nhà thơ lớn thời Đường Tống (Đường Tống bát đại gia). Tô Triệt lúc nhỏ học với cha và học thêm với thầy Lưu Thuần cũng ở quê Mi Sơn của Tử Do (nay thuộc Tứ Xuyên,Trung Hoa). Ông cùng anh mình đều thi đỗ tiến sĩ năm 1057, đời Tống Nhân Tông(1022-1063). Đến năm 1061, lại cùng anh thi đỗ kỳ thi Chế khoa để bổ ra làm quan. Nhưng Tử Do xin tạm hoãn do phải phụng dưỡng cha rồi vài năm sau mới vào triều. Năm 1070, đời Tống Thần Tông, Vương An Thạch được cử làm tể tướng đã đưa ra “tân pháp” hay “biến pháp” để cải cách chính sách của triều đình. Khi đem ra thi hành, tân pháp bị sự phản đối của
nhiều quan lại và sĩ phu trong đó có hai anh em nhà họ Tô. Tô Triệt đã dâng thư phản đối lên vua chỉ trích tân pháp.Nhờ người bạn Trần Thắng Chi có lời tâu nên khỏi chịu tội nhưng bị đổi đi làm Trấn thủ Hà Nam (Trung Hoa).
Lần lượt năm 1073 bị đổi đi làm thư ký ở Tề Châu (Sơn đông), rồi năm 1077 bị đổi làm Trước tác lang. Năm 1079, lấy chức quan để chuộc tội cho anh là Tô Thức không được, lại bị giáng chức làm việc giám sát thuế ở Quân Châu (Giang Tây, T.H). Năm 1084, được thăng làm Tri huyện Tích Khê (An Huy, T.H). Khi Tống triết Tông lên ngôi, cựu đảng do Tư Mã Quang đứng đầu lại dược trọng dụng. Tô Triệt lại được triệu về kinh nhận chức mới lần lượt lên đến chức Ngự sử trung thừa ,Môn hạ thị lang nắm quyền chấp chính. Nhưng rồi Tống Triết Tông lại thay đổi triều chính theo tân đảng ,ông dâng thư phản đối lại bị giáng chức và bị biếm trích ra Nhữ Châu và nhiều nơi khác nữa. khi Tống Huy Tông nối ngôi (1100), ông vẫn còn nay đây mai đó rồi
được phục chức Thái trung đại phu. Rồi lại bị giáng chức và trở lại chức này. Năm 1101, ông đã 62 tuổi chán ngán quan trường nên xin về nghỉ hưu ở vùng Hứa Xương (Hà Nam, T.H) bên dòng Dĩnh Thủy nên lấy biệt hiệu là Dĩnh Tân Di Lão 颍滨遗老 để vui thú điền viên. Năm 1113, Tử Do mất thọ 73 tuổi. Đọc thơ của Tô Đông Pha, chúng ta cảm nhận được tình anh em thắm thiết của Tô Thức và Tô Triệt. Ngoài ra,giữa hai anh em họ Tô còn là tình cảm bạn bè sâu đậm hiểu về nhau, chia sẻ những nỗi buồn hay niềm vui khi xa cách, nhớ nhau cũng như cùng chí hướng trong những vấn đề của triều đình khi “tân pháp” của Vương An Thạch ra đời khiến hai anh em và nhiều người phản đối phải lao đao ,tù tội và biếm trích đi xa. Cuộc đời của hai anh em Tô Thức và Tô Triệt là những chuổi ngày thăng quan, gián chức liên tục và rất nhiều thời gian cho những phương trời bị biếm trích tuy còn được làm quan nhưng không có lương bổng ,bị đầy đọa rày đây mai đó khổ nhọc một đời........
- vi tuyết 微雪: trời có tuyết nhẹ,ít và mỏng...
- Kỳ Dương 岐陽: tên huyện thời Tống, nay vẫn còn tên cũ, là huyện thuộc thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa.
- tuế mộ tâm 歲暮心: nỗi lòng lúc giao thời ở cuối một năm(tuế mộ).
- tống hàn 送寒: tiễn đưa cái lạnh ra đi...
- châm xử cấp 砧杵急:tiếng chày giặt và đập áo (châm xử) gấp gáp, vội vàng (cấp)...
- lãnh quan 冷官: chức quan nhỏ ,lương bổng ít ỏi và đối với người từng bị biếm trích đi xa như Tô Thức, Tô Triệt cũng chẳng được hưởng lương triều đình...
- ốc lư thâm 屋廬深: căn lều lợp tranh hay lá (ốc lư hay ốc lô) ở sâu vào bên trong của cánh đồng...
- sầu trường 愁腸: nỗi buồn sầu trong ruột hay trong lòng (trường 腸). Có bản dùng chữ “trường 長” có nghĩa là nỗi sầu muộn kéo dài (xem bản: Tuệ Sỹ, “Tô Đông Pha ,những phương trời viễn mộng”, bàn in NXB Ca Dao, Saigon1973 hoặc bản in lại có hiệu chỉnh của tác giả do NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2008, tr.118.
- mãi 買: mua sắm hay bán đi. Trong câu 7 của bài thơ này, có lẽ Tô Đông Pha nghĩ đến việc Tử Do sau khi bị biếm trích lại được phục chức khi phe của Tư Mã Quang thắng thế trong triều với chức cao nhất là quyền Thượng Thư Bộ Lại(1089) và được cử đi sứ nước Liêu (Khiết Đan). Đây là một nước nằm về phía tây bắc của Trung Hoa ,thời tiết lạnh giá nên đi sứ cần sắm chiếc áo điêu cừu chịu lạnh nơi vùng biên tái, quan ải xa xôi như nước Liêu (Cận mãi điêu cừu kham xuất tái 近買貂裘堪出塞); “kham xuất tái” nghĩa là “chịu được,
chịu nổi”(cái lanh) vùng biên giới nhờ cái áo điêu cừu mới mua!. Còn
“không chịu được hay không chịu nổi”... v.v... sẽ là “bất kham xuất tái 不堪出塞”
- điêu cừu 貂裘: áo làm bằng da ấm của con điêu ,mặc ấm như áo da cừu. Điêu là loài vât giống chuột nhưng rất lớn có da lông dày dùng làm áo ấm chịu được rét lạnh và rất quý...
- tái 塞: tức biên tái hay vùng biên giới ,quan ải ngăn chia với nước khác và
các bộ tộc khác. Ở Trung Hoa, vùng biên giới phía bắc hay tây bắc thường lạnh và phải luôn đối phó sự phá quấy hay xâm nhập vào lãnh thổ của người Hoa...
- hốt tứ thặng truyền 忽思乘傳: chợt nghĩ ra (hốt tứ) nên cưỡi xe (thặng) để đi (truyền)...
- vấn tây sâm 問西琛: hỏi thăm(vấn) đồ quí giá (sâm) bên phía tây...
Bài 49
CỬU NGUYỆT NHỊ THẬP NHẬT
VI TUYẾT HOÀI TỬ DO KỲ NHỊ
九月二十日微雪懷子由弟其二
Giang thượng đồng chu thi mãn khiếp, 江上同舟詩滿篋,
Trịnh tây phân mã thế thuỳ ưng. 鄭西分馬涕垂膺。
Vị thành báo quốc tàm thư kiếm, 未成報國慚書劍,
Khởi bất hoài quy uý hữu bằng. 豈不懷歸畏友朋。
Quan xá độ thu kinh tuế vãn, 官舍度秋驚歲晚,
Tự lâu kiến tuyết dữ thuỳ đăng. 寺樓見雪與誰登。
Dao tri độc Dịch đông song hạ, 遙知讀易東窗下,
Xa mã xao môn định bất ưng. 車馬敲門定不應。
Dịch nghĩa:
Trên sông (hai anh em) cùng đi thuyền với thơ để đầy trong cái trápnhỏ, - Nước mắt chảy đẫm ngực khi chia tay rẽ ngựa ở phía tây Trịnh Châu.
- Chưa hoàn thành việc báo đáp ơn nước nên thẹn với sách và kiếm!, - Há là không muốn trở về (triều đình) vì lo ngại bạn bè. (c-1-4)
Nhà của quan ở trải qua mùa thu, e sợ cho năm tháng về chiều, - Sẽ cùng ai leo lên lầu gác của ngôi chùa để cùng ngắm tuyết?! – Từ nơi xa vẫn biết (em ) đang đọc Kinh Dịch bên dưới cửa sổ phía đông! – Dẫu cho ngựa xe đến gõ cửa vẫn yên lặng như chưa từng có gì!
Tạm chuyển lục bát:
NGÀY HAI MƯƠI THÁNG CHÍN
CÓ TUYẾT NHẸ,NHỚ EM TỬ DO (Bài 2).
Cùng thuyền thơ túi trên sông,
Giã từ tây Trịnh, lệ tuôn ngực trào.
Kiếm thư ơn nước thẹn sao!
Lo về há ngại bạn bầu đó chăng!
Nhà quan, thu sợ tuổi tàn,
Gác chùa ngắm tuyết ai đang leo cùng.
Biết xa, đọc Dịch cửa đông,
Ngựa xe gõ cửa ,yên không hay gì!
Chú thích:
- thi mãn khiếp 詩滿篋: thơ đầy tràn trong chiếc tráp bằng mây tre (ngày xưa khi làm thơ ngâm vịnh ,thi nhân thường bỏ thơ vào ciếc túi, chiếc hộp tre nhỏ để đựng gọi là “khiếp”)
- Trịnh 鄭: tức Trịnh Châu, nay là một huyện của tỉnh Hà Nam, Trung Hoa...
- phân mã 分馬: cưỡi ngựa đi cùng chung đường đến lúc chia tay gọi là tách ngựa (phân mã) ra
- thế thùy ưng 涕垂膺: nước mắt hay nước mũi (thế) chảy tuôn (thùy) trào đẫm ướt ngực (ưng)...
- tàm 慚: thẹn thùng, hổ thẹn, tủi thẹn...
- khởi bất hoài quy 豈不懷歸: há chăng(khởi) không lo nghĩ (bất hoài) chuyện quay trở về(quy)... Tử Do khi bị giáng chức phải làm nhiều chức quan nhỏ nhưng vẫn thường lo nghĩ chuyện triều đình với nhiều bạn bè cùng chí hướng và nhiều kẻ đố kỵ không ưa hai anh em họ Tô...
- độ thu 度秋: trải qua mùa thu...
- kinh tuế vã 驚歲晚: sợ cho tuổi đã về chiều, tuổi sắp già rồi, tuổi sắp tàn phai...
- tự lâu 寺樓: gác hay lầu (lâu) của nhà chùa (tự).
- kiến tuyết 見雪: ngắm trông, nhìn xem (kiến) tuyết rơi.
- dữ thùy đăng 與誰登: ai là người(thùy) sẽ cùng (dữ) leo lên (đăng) đây?
- dao tri 遙知: từ xa xôi vẫn biết ....
- Dịch 易: tức Dịch Kinh 易經, một tác phẩm quan trọng trong kho tàng tư tưởng của triết học Trung hoa có từ rất xa xưa đề cập đến những vấn đề vũ trụ ,trời đất và con người rất bao quát.... Ở đây, Tô Đông Pha mượn câu chuyện thời Tam Quốc: “Có đôi bạn tâm giao là Quản Ninh và Hoa Hâm. Một hôm khi đang ngồi đọc sách cùng nhau ,nghe có tiếng xe ngựa đi qua trước cửa ,Hoa Hâm bỏ sách vội ra xem. Quản Ninh thấy vậy đã xẻ chiếc chiếu ngồi chung, cắt đứt tình bạn”....Mặt khác, Tô Thức trong mối tâm giao với em ruột là Tử Do rất hiểu cái chí của em mình đang chờ thời, tìm hiểu kinh Dịch để có ngày sẽ đem thi thố với đời!
- xao môn 敲門: gõ cửa...
- định bất ưng 定不應: yên lặng không hay biết, yên lặng như chưa từng có.... Nên lưu ý trong câu này Tô Đông Pha dùng chữ “bất ưng”, xét về vần, chữ “ưng” sát hợp với các câu trên theo vần bằng. Có bản ghi là “bất ứng” nghĩa là không trả lời .1-/Chữ “ứng”âm của “ưng” không hợp với vần bằng các câu trên.2-/ Đồng thời ,nghĩa của “bất ưng” ở đây cho thấy người đọc Kinh Dịch là Tử Do thả hồn trong sách và yên lặng chú tâm đọc nghĩa lý không hề quan tâm và hay biết chuyện bên ngoài. Còn “bất ứng” tức là có nghe có biết tiếng gõ cửa nhưng không trả lời. Hai ý rất khác nhau rất nhiều!
(Lần đến THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA – Bài 50, 51 và 52)
Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét