Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và quý Thân Hữu
bài Những Chuyến Đi Xa, tác giả: Nguyễn Tuyết Lộc.
Những dòng tâm tình của tác giả gửi cho NHHN như sau:
Kinh gửi ban Biên Tập NHHN
Thú thật mà nói
Sau 75 mất dạy, Tôi đã qua gần 20 năm viết báo, hằng ngày hằng tuần thấy tên mình trên mặt báo nhưng chưa bao giờ có những cảm xúc rộn ràng, reo vui như hôm nay khi thấy tên mình, bài của mình được đưa lên NHHN - một địa chỉ vô cùng xa lạ nhưng lại rất ấm áp như thân quen tự thuở nào.
Sáng nay bỗng thấy mình trẻ lại, nhớ ngày đầu tiên đọc bài thơ "con cóc" đầu đời của mình được đăng trên nguyệt san Văn Hóa Ngày Nay của nhà văn Nhất Linh vào những năm 50.
Chân thành cám ơn BBT NHHN nhé.
NTL
Trân trọng giới thiệu
NHHN
Du
lịch đó đây là một trong những sở thích của tôi, mỗi khi thấy trí não bắt đầu
trì trệ, cơ thể rã rời. Đi theo tours không cần lo chỗ ăn ở, tham quan, nhưng
giờ giấc phải tuân thủ, muốn ngủ thêm chút buổi sáng, cũng phải mắt nhắm mắt mở
dậy cho kịp đoàn; đi một mình, tha hồ nghỉ ngơi, dừng lại bất cứ nơi đâu, bất
cứ lúc nào mình muốn, tôi có nhiều thời gian hơn để chiêm nghiệm những điều kỳ
thú của cuộc sống ngoài đất nước mình, đôi khi trùng hợp những sự kiện lịch sử
xứ người, như đọc được từng trang sách mới vô cùng hấp dẫn, nhưng xem chừng
không người hướng dẫn, lắm lúc gặp tình huống dở khóc dở cười, tự nhiên thấy
mình ngây ngô như dưới quê lần đầu lên tỉnh.
1997. Đây là lần đầu tiên tôi đi Mỹ thăm anh Hai tôi sau 22 năm
xa cách kể từ 75.
Vào thời điểm này, không dễ dàng gì lấy được visa vào nước Mỹ.
Thời Việt Nam đã “đổi mới” nhưng những ngăn trở, nghi ngại ở cả hai phía đối
phương cũ chưa thể xóa nhòa. Những người vượt biên trước đây được xóa án, thậm
chí được tiếp đón nồng hậu khi trở về thăm quê nhà với danh xưng rất đẹp: Việt
kiều yêu nước. Mà họ yêu nước yêu dân thật sự đấy chứ. Thứ nhất, hầu hết ra đi
vì bế tắc kinh tế và mối lo cho tương lai học hành nghề nghiệp của con cái chứ
không hẳn vì chính trị chính em gì. Thứ hai, họ cũng lao động hết sức mình nơi
quê người để kiếm tiền gửi cho thân nhân, đỡ một phần đất nước phải gánh vác.
Những năm 80 – 90, khi đưa tiễn thân nhân sang Mỹ theo diện HO
hay ODP đoàn tụ gia đình người ta khóc lóc thảm thiết, đôi khi ngất xỉu. Họ
nghĩ rằng sẽ không bao giờ còn thấy được người thân. Người ngoài, người trong,
cách nhau chỉ một lằn vạch đỏ 5cm mà như xa muôn trùng, như ở hai thế giới khác
nhau.
New York City
(Click vào hình trong bài để xem rõ)
*Cái căng thẳng nhất với tôi khi đi nước ngoài là múi giờ. Khi
tiễn tôi ra phi trường Kentucky lúc 7 giờ sáng, chuyến bay sẽ dừng lại ở
Louisiana, đổi máy bay rồi đi Boston, anh Hai tôi, vừa dặn đi dặn lại kỹ càng,
vừa viết vào tờ giấy lớn, chữ lớn khiến tôi có cảm tưởng mình vẫn còn bé lắm
với anh tôi.
Từ Kentucky 7 giờ, bay một tiếng đến Louisiana đúng 8 giờ. Nhưng
tôi phải chỉnh đồng hồ thêm hai tiếng là 10 giờ, cho hợp giờ địa phương. Như
vậy, di chuyển một tiếng mà như phải trải qua ba tiếng. Máy bay vừa đáp xuống,
lấy hành lý xong, tôi thấy nhiều người kéo vali chạy. Mọi người tránh đường cho
họ chạy. Tôi ngơ ngác, rồi hoảng hốt cũng kéo vali đâm đầu chạy. Chạy trối
chết. Trong đầu tôi bấy giờ chỉ sợ mỗi một thứ là: khủng bố. Trên truyền hình,
hằng ngày đầy dẫy tin khủng bố ám ảnh tôi.
“- Trời ơi, khủng bố, khủng bố!” Vừa chạy, mắt vừa nhìn số gate
treo trên cao, miệng hét thật … nhỏ, vừa chỉ mình tôi nghe: “-Không chết ở nhà,
qua đây làm chi để chết vì khủng bố”. Mãi gần hai mươi phút mới đến đúng số gate
của tôi. Dừng lại, hổn hển thở. Nhìn quanh, mọi người bình thản đi lại chẳng có
vẻ gì sợ khủng bố như tôi. Hoàn hồn, tôi kiếm chỗ ngồi. Nhưng sao phòng đợi
chẳng có ai? Chết rồi! Trễ chuyến bay rồi. Lại hoảng hốt, tôi lấy vé ra xem.
Thì ra, thời gian còn dư nhiều. Yên tâm, tôi đi vòng vòng mua ba thứ làm quà
để… giết thời gian. Khi trở lại, một cô nhân viên đứng sau bàn có bảng ghi
“Boston”. Vẫn không có hành khách. Tiếng loa vang lên, người ta thông báo rất
nhanh, tôi nghe mà chẳng hiểu ất giáp gì cả. Tôi nghĩ hành khách đã làm thủ tục
vào máy bay rồi, nên nhờ cô giúp đỡ. Cô gọi ngay một ông Mỹ da đen chở tôi ra
máy bay. Ông giao tôi cho cô tiếp viên. Cô này chu đáo dẫn tôi đến chỗ ngồi,
dịu dàng nói:
- Cô đi sớm quá. Còn một tiếng đồng hồ nữa.
Những sợi dây thần kinh trong đầu tôi từ khi xuống máy bay căng
thẳng và rung lên bần bật, giờ mới được giãn ra. “- Ngồi được trong máy bay là
yên chí, bảo đảm không sợ trễ”. Tôi thở phào cười thầm sao mình “quê” thế. Mệt
quá, tôi nhắm mắt lại… ngủ luôn!
Thành phố Boston
Khi máy bay rời Louisiana, đồng hồ đúng 12 giờ. Đến Boston 13 giờ. Tôi lại chỉnh đồng hồ. Nhưng lần này không phải tăng, mà lùi 4 tiếng. Vì máy bay đã lùi 4 múi giờ. Lùi đồng hồ 4 tiếng, tức 9 giờ sáng cho khớp giờ địa phương.
Sự tiến lùi múi giờ phức tạp như thế, làm tôi có cảm tưởng mình
đang ở trên một chiếc võng đong đưa, chơi vơi như trong cơn say, không ý thức
mình đang ở thời điểm nào nữa. Đồng hồ chỉ 9 giờ sáng mà mang cơn đói cồn cào
lúc 1 giờ chiều. Như vậy phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa mới có ăn!
Tôi điện thoại cho anh Hai biết chuyến đi an toàn kẻo anh lo. Và
kể những chuyện xảy ra ở sân bay, anh tôi cười ha hả:
- O Lộc nhiều lần ra nước ngoài, răng bữa ni o ngô nghê rứa?
Người ta đổi chuyến bay phải chạy cho kịp giờ, vì sân bay ở đây rộng lắm. Không
chạy là trễ.
- Anh ơi, đây là lần đầu em đi Mỹ. Mà nghe đến Mỹ là sợ khủng
bố. Cái chi cũng làm em sợ. Anh nhớ hôm anh chị đưa em đi xem khu Harlem của
người da đen ở không? Em sợ đến nỗi gần tè trên xe khi anh lái vòng vòng, mấy
cậu da đen cao to như tượng đồng đen, mình xăm đủ kiểu, đứng giữa lối đi, nhìn
chằm chằm vào xe. Đã rứa, anh còn nói, khu ni nổi tiếng dữ tợn lắm, loạng quạng
là tụi nớ giết ngay, y như trong phim hành động rứa. Em hối anh ra khỏi đó mau
lên. Về đến nhà vẫn còn sợ. Mà răng em thấy ở Mỹ cái chi cũng có thể làm mình
căng thẳng hoảng sợ hết anh hè. Đi máy bay thì sợ trễ giờ. Ra khỏi nhà sợ đủ
thứ.
- Vì lần đẩu o đến Mỹ, cái gì cũng lạ với o làm o không an tâm.
Đi lần thứ hai, o sẽ “ghiền” nước Mỹ. Ở đây, người ta vẫn hít thở, vật lộn cũng
như tận hưởng cuộc sống từng giây phút một. Họ chỉ sợ một điều duy nhất trên
đời, đó là không tiền. Không tiền, đồng nghĩa với không job, không nhà cửa, và
đi “ăn mày” chính phủ. Anh khen o, lần đầu đến Mỹ mà dám đi một mình. Giỏi,
giỏi. Welcome o lần tới hí.
Plaza Hotel NY
*Bước vào Plaza Hotel, 768, Fifth
Avenue, ở Central Park South, quận Manhattan New York, điều làm mọi người chú ý
đầu tiên không phải sự xa hoa tráng lệ hay cách bài trí cổ điển của một khách
sạn năm sao được xây dựng cách đây hơn 100 năm, mà mọi con mắt đều ngước nhìn
một bức tranh thật lớn, treo bên phải tường khách sạn, vẽ cô bé khoảng 5 tuổi,
tóc cài băng đô đính hoa, xinh xắn, mặc váy đầm hồng nhạt. Kế dưới bức tranh
đặt chiếc bàn gỗ, chạm trỗ hoa văn rất công phu. Bên trên bàn để một chồng sách
viết về tiểu sử cô bé. Khách vào thuê phòng ở đây hầu hết có tiền; cuốn sách
100 đô viết về tiểu sử một em bé gây sự tò mò, nên ai cũng cầm một cuốn.
Trong lúc chờ nhận phòng, tôi lật xem bên trong sách. Câu chuyện
kể một bé gái tên Madeline, có mẹ làm bồi phòng từ khi khách sạn khánh thành
ngày đầu tiên, vì gia đình nghèo không tiền gửi nhà trẻ, nên mẹ đi làm bé được
dẫn theo luôn. Sợ ban Giám đốc thấy bé, mẹ bị đuổi việc, nên khi ban Giám đốc
đi kiểm tra, bé chạy trốn vòng vòng từ lầu trên xuống lầu dưới, chui vào
toilette này đến toilette khác, trong túi áo luôn mang theo một tập vở và cây
bút chì để học chữ mẹ dạy mỗi tối. Từ sáng đến chiều ở trong khách sạn, mọi
công việc mẹ làm bé biết rành mạch. Mấy trăm toilette, mấy chục tầng lầu, thang
máy, thang bộ, bé đều đặt chân đến. Plaza Hotel là căn nhà thứ hai của bé.
Năm này qua năm nọ cho đến một hôm, ban Giám đốc khách sạn bắt
gặp bé đang ngồi học trên sân thượng, gọi vào hỏi. Bé thành thật khai. Không
những mẹ không bị đuổi việc mà bé được ban Giám đốc cho tiền ăn học, có xe đưa
đón. Sau khi tốt nghiệp Đại học, bé bấy giờ trở thành cô gái yêu kiều được
tuyển vào làm quản lý chính khách sạn năm sao đó. Các trang chuyện kể có minh
họa hình cô bé. Cách viết văn ngắn gọn, súc tích và truyền cảm gây xúc động người
đọc. Khi cuốn sách trên tay tôi gấp lại, nhìn lên tranh cô bé đứng trước mặt,
tôi mỉm cười nghĩ: hôm nay cô bé này đã trở thành cụ bà hơn 100 tuổi rồi.
Sự nhộn nhịp của đại lộ số 5 bắt đẩu từ 7 giờ tối. Đó là con
đường chính của New York. Nơi đây sự tương phản mang tính chất bi hài. Bên này
đường là khách sạn năm sao Plaza Hotel được xây dựng hơn trăm năm, đối diện bên
kia đường là công viên, nơi những chiếc xe ngựa cũ kỹ chở khách tham quan thành
phố. Bên này sạch sẽ, bóng loáng, toát lên mùi thơm tho, bên kia nồng nặc mùi
ammoniac của nước đái ngựa.
Suốt đại lộ số 5, ngước cổ nhìn lên, những nhà cao tầng ngất ngưởng chọc trời như đang trôi bồng bềnh trong mây. Phố xá tấp nập, nhất là khi hoàng hôn xuống, đèn đường bật sáng, cuộc sống đêm bắt đầu nhộn nhịp.
Một gia đình người Mỹ da đen, gồm bà vợ ngực mông to quá cỡ, môi
tô đỏ chót, ông chồng cũng nặng kí không kém, rất cân xứng với vợ, tay xách kèn
saxophone. Ngược lại, ba cậu con trai ốm nhom, mặc veste, cà vạt chỉnh tề, một
con chó to bằng bò con. Cả gia đình lễ mễ soạn trống đàn ra đường phố. Khi
tiếng kèn saxo thống thiết từng hồi của cha vang lên bài “The Sun Rises”, bà mẹ
cất tiếng khàn đặc, nức nở, mắt nhắm lại, cả thân thể bà đong đưa, quằn quại,
những đứa con nhún nhảy phụ họa. Từ Jazz, bỗng đổi sang Rock, Rap. Rap đã có
sẵn từ trong máu ba cậu bé trai. Chúng bắt đầu trổ tài nhảy rap, đẹp, nhuyễn,
không chê vào đâu được, không thua gì ông Hoàng nhạc Pop M. Jackson. Đó cũng là
lúc chú chó làm nhiều trò cho khán giả “đứng đường” cười nghiêng ngửa, quên đi
những căng thẳng mà cuộc sống mang đến cho họ.
Freedom Tower (Tháp Tự Do)
Người qua, kẻ lại, càng lúc càng đông, đứng quanh xem biểu diễn,
vui vẻ móc túi, thưởng tiền vào chiếc mũ nỉ được chú chó khôn ngoan cầm ở hai
chân trước đi xin từng người. Khoảng 9 giờ tối, các họa sĩ vẽ chân dung bắt đầu
bày biện bút, màu ra lề đường. Không thể nào đi qua đó mà không dừng lại để họ
vẽ cho mình một bức hình kỷ niệm. Tấm bảng ghi 5 đô một chân dung vẽ bằng chì,
lấy ngay sau 10 phút. Ai mà không ham. Tôi cũng sà xuống.
15 tuổi, tôi đã từng làm người mẫu cho cô Maria Mộng Hoa, nữ họa
sĩ nổi tiếng một thời ở cửa Thượng Tứ Huế, và bức tranh “Nguồn mỹ cảm”
được cô chọn gửi triển lãm ở Sài Gòn. Nhà báo, nhà văn Ngu Í vào năm 1962 có
viết một bài phỏng vấn cô trên tạp chí Bách Khoa: “Tranh chị vẽ, có đôi bức
nào khiến chị ưng ý không?”. Cô cho biết: “Có hai bức, đó là Thủy
tạ chiều thu và Nguồn mỹ cảm”. Bây giờ làm người mẫu 10 phút,
dễ thôi. Tôi tưởng tượng mình sẽ có một chân dung thật đẹp, thật duyên dáng,
độc đáo ở tuổi “không có tuổi”, do những họa sĩ chuyên về chân dung, lại vẽ
ngay tại một trong những thành phố lớn của Mỹ giá 5 đô đâu có mắc mỏ gì. Phải
không các bạn? Do đó, tôi ngồi im không dám nhúc nhích, sợ ảnh hưởng đến nét vẽ
của họa sĩ, trong lòng hồi hộp đợi chờ.
Khi họa sĩ vẽ xong nét cuối cùng, đưa búc tranh cho tôi. Có thể
nói, đây là một trong những lần tôi mở mắt thật to để ngắm nhìn hình ảnh chính
mình được thể hiện trên tranh. Than ôi! Bức chân dung ấy chẳng giống tôi chút
nào, mà hình như giống một người nào đó có quen biết và quên bẵng từ lâu.
Chưa kịp hết thất vọng về tài vẽ của họa sĩ, thì lại đến lúc tôi
bấm bụng đưa 5 đô để trả tiền công ông ta. Một tay chỉ vào tấm bảng ghi giá 5
đô, tay còn lại, ông ta khẽ kéo một bức tranh kế bên ra để lộ “bức chân dung
giá cả” đầy đủ là 25 đô!
Chỉ trong khoảnh khắc vẽ tranh mà tôi đã hai lần phải mở to đôi
mắt mình ra… ngố.
*Qua Hồng Kông, ở lại một đêm, hôm
sau tôi tiếp tục đi Macao trong ba ngày. Sân bay Quốc tế Hồng Kông so với những
ngày đầu vừa được Anh Quốc trao trả, bây giờ đẹp rực rỡ và hoành tráng hơn
nhiều.
Nhớ năm 1997 khi tôi từ Mỹ đến Hồng Kông, cũng là lúc Hồng Kông
đã chính thức được trao trả về Trung Quốc sau hơn 150 năm thuộc địa của Anh. Sự
kiện này đánh dấu Hồng Kông trở thành một đặc khu hành chính của Trung Quốc.
Sân bay hôm đó chật cả người với người. Một phần do có bão ở Biển Đông, các
chuyến bay phải dừng lại, khách ứ đọng từ hôm trước. Phần khác, người dân từ
Trung Quốc hay các nước lân cận đến tham quan, thăm viếng thân nhân, trao đổi
hàng hóa, hoặc hành khách quá cảnh tại đây, chờ chuyến bay. Đủ mọi chủng tộc,
họ nằm la liệt choán hết lối đi. Trẻ em nóng bức, đói khát, khóc thét từng hồi.
Tiếng kêu nhau ơi ới, ồn ào, huyên náo. Họ sắp hàng dài ngoằn ngoèo để chờ mua
thức ăn ở các nhà hàng, hoặc chờ đến phiên mình vào toilette. Phải khó khăn
lắm, tôi mới đến được văn phòng sân bay, nhờ họ tìm giúp một khách sạn gần nhất
để ngủ qua đêm.
Hồng Kong
Ngoài đường phố, cũng ồn ào không kém. Một nhóm người đang rượt
đuổi, thanh toán nhau bằng những thanh sắt dài. Không có cảnh sát can thiệp.
Nhà ở, hiệu buôn đều đóng cửa. Chú tài xế khách sạn cho biết, Hồng Kông từ khi
được trả lại cho Trung Quốc mấy tuần đầu, cướp bóc xảy ra, chính quyền mới
Trung Quốc chưa phân bố đầy đủ lực lượng chuyên ngành. Tình hình rất nguy hiểm.
Tôi đi du lịch mà căng thẳng giống như chạy giặc. Không biết ngày mai, có
chuyến bay về lại Sài Gòn?
Mười sáu năm sau, kể từ 1997. Hong Kong International Airport
rộn ràng máy bay lên xuống. Đây là điểm dừng cho các chuyến bay của tuyến đường
giữa Úc và Á, hay từ Hoa Kỳ đến Singapore và Sài Gòn, cũng như từ Ấn đến Osaka,
Nhật, hay Seoul, Hàn Quốc.
Trước đây sân bay này được bầu chọn là một trong những sân bay
lớn nhất, tốt nhất châu Á và thế giới. Nhưng từ 2006, thì Singapore đã soán
ngôi. Tôi nghĩ, nhờ sự bận rộn của các chuyến bay mà Hồng Kông ngày nay rực rỡ
như thế.
Tôi lấy vé tàu cánh ngầm đi Macao ngay tại đây, và chỉ 40 phút
sau đã có mặt ở bến phà Shun Talk Centre, Macao, đông kín du khách. Taxi, xe
buýt và cả xích lô, sẵn sàng bên kia đường chờ khách. Tôi tìm tuyến xe buýt về
khách sạn Grand Lisboa, một trong những khách sạn lớn nhất, building xây cao
nhất của Macao. Nhiều khu giải trí, ăn uống, nghỉ ngơi, có cả casino đánh bạc
nữa.
Tắm xong, soạn đồ đạc trong vali để vào tủ, thay vội áo quần,
tôi náo nức dong ngay ra đường, tay cầm tấm bản đồ và một cuốn sách bỏ túi giới
thiệu danh lam thắng cảnh, nơi ăn ở tại đây.
Kiến trúc Macao rất phong phú. Đâu đâu cũng thấy building cao
tầng, nhiều kiểu dáng mang đậm phong cách Bồ Đào Nha. Tất cả “thiên đường mua
sắm” quanh tôi, đều có mặt ở các thành phố lớn tại Việt Nam.
Đây là trung tâm múa nước, kia là sân khấu biểu diễn màu sắc
bằng đèn neon. Tượng Phật Quan Âm lớn, là sự pha trộn giữa hình ảnh truyền
thống Quan Âm và Mẹ Maria. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là đâu đâu cũng
có casino. Theo dân địa phương cho biết, thì các chủ casino từ Las Vegas, Mỹ,
đổ tiền vào đầu tư ngành công nghiệp đánh bạc ở đây. Một hòn đảo nhỏ bé, chứa
đến bốn casino khổng lồ, không hổ danh là đàn em của Las Vegas, Mỹ. Trước đây,
lần đầu đến Las Vegas, tôi đã bị “sốc” về sự hoành tráng và “ngông cuồng” có
một không hai của nền công nghiệp đánh bạc Mỹ. Ở Las Vegas, người ta du lịch
trong vương quốc giả tạo, và vào đó để đốt đô la. Bao nhiêu kiểu kiến trúc biểu
tượng đẹp, kỳ lạ của thế giới, đều được sao chép, đặt tại đây.
Ma Cao
La la la la…
La la la la
Gondolier t’en souviens-tu?
Les pieds nus sur ta gondole
Tu chantais la barcarolle
Tu chantais pour Lui et Moi
Lui et Moi tu te rappelles
Lui et Moi c’était écrit
Pour la vie la vie si belle
Gondolier quand tu chantais
La la la la….
La la la la….
Oui je t’aime de tout mon coeur
Oui je t’aime et je t’adore
Prends mon coeur
Et si tu m’aimes
Je t’aimerai bien plus encore
La la la la
La la la la
La la la la…
Cet air là était la nôtre
Gondolier si tu le vois
Dans les bras, les bras d’une nôtre
Gondolier ne chante pas.
La la la la…
La la la la
La la la la…
Cuối tuần, tôi trà trộn với đám đông đang chen lấn ở khu đánh
bạc Lisboa. Họ là du khách đến từ Trung Quốc, Hồng Kông hay các nước láng
giềng, trao đổi với nhau bằng tiếng Quảng Đông, hay Bồ Đào Nha. Ít sử dụng
tiếng Anh. Người ta hớn hở vì được đem tiền cho “cọp đói” ngốn ngấu. Những sòng
bài mới của Macao luôn tuyển “giáo đồ”. Đang tò mò xem các cỗ máy, thì một phụ
nữ đứng cạnh, huých cùi chỏ vào lưng tôi đau điếng. Tôi bực mình quay người
lại, nhưng bà ta chẳng thèm nói lời xin lỗi. Tuy không đánh bài, nhưng các bà
lại la hét, vung tay, giậm chân tham dự cá cược một cách cuồng nhiệt. Tốc độ
chớp nhoáng, công an chìm luôn đứng đằng sau lưng con mồi mà không bao giờ bắt.
Điều quan trọng chính là để chia sẻ vui buồn và phòng khi khách thua bạc, đấm
đá nhau. Nhìn cảnh tấp nập, người ra kẻ vào, họ la hét khản cổ họng, người đấm
vào máy thùm thụp cho đã giận khi bị thua, kẻ khác cười hô hố lùa tiền, xô bên
này, lấn bên kia, quanh họ như không còn đất trời nữa, tôi toát cả mồ hôi.
Căn phòng rộng mênh mông, chật nêm người và cỗ máy nuốt tiền, cho dù máy lạnh tỏa ra không độ đi nữa, tôi vẫn cảm thấy như đang đứng giữa trưa nắng nóng. Ôi, những casino đang lên cơn sốt kia là một tài sản khá tốt cho Trung Quốc vừa thu lại Macao sau bốn thế kỷ rưỡi bị đô hộ. Còn dân chơi sẽ ra về từ cánh cửa địa ngục, mà cách đó chỉ vài tiếng đồng hồ thôi, họ nghĩ rằng mình bước vào cổng thiên đường!
Căn phòng rộng mênh mông, chật nêm người và cỗ máy nuốt tiền, cho dù máy lạnh tỏa ra không độ đi nữa, tôi vẫn cảm thấy như đang đứng giữa trưa nắng nóng. Ôi, những casino đang lên cơn sốt kia là một tài sản khá tốt cho Trung Quốc vừa thu lại Macao sau bốn thế kỷ rưỡi bị đô hộ. Còn dân chơi sẽ ra về từ cánh cửa địa ngục, mà cách đó chỉ vài tiếng đồng hồ thôi, họ nghĩ rằng mình bước vào cổng thiên đường!
Casino Ma Cao
Thêm một ngày nữa, Macao.
Phải nhờ đặt mua vé trước, khi vừa đặt chân đến khách sạn, tôi
mới vào được đây. Sân đua ngựa rộng, hiện đại như ở Paris, lượng người đông,
dày đặc, chen chúc hơn casino. Các màn té ngựa, đu trên lưng ngựa, ngựa vượt
rào chắn, hay ngựa giẫm lên người, bốn vó ngựa co lại, người cầm cương nằm mọp
trên lưng, hai tay siết chặt dây cương, tung mình lên cao như bay khỏi mặt đất.
Rất hồi hộp, nhưng rất đẹp mắt. Cát bụi mịt mù. Mức độ nguy hiểm đến tính mạng
người đua giống trong các phim hành động. Càng có những pha cao trào, chết
người, càng nhận được những tràng vỗ tay nồng nhiệt của khán giả, hay tiếng hò
hét cổ vũ vang cả sân đua. Những lúc như vậy, tôi quay nhìn người bên cạnh,
thấy nét mặt họ vẫn thờ ơ, không chút xúc động thương tâm. Một du khách đứng
cạnh tôi cho biết, mỗi lần người ta cá cược đua ngựa cả chục triệu patacas,
tiền địa phương. “-Đây là nơi gà đẻ trứng vàng”.
Casino là địa ngục cho những ai có “máu cờ bạc”. Còn thành phố
xinh đẹp mang phong cách một phần Châu Âu cổ Latin, một phần Trung Hoa, không
có gì là địa ngục cả. Nó cũng thu hút du khách như những sòng bài, trường đua
ngựa hay đua chó.
Nếu Hồng Kông cách Macao 60km, là một thành phố người ta làm
việc tất bật để kiếm ra tiền, thì Macao là nơi hưởng lạc, người ta đến để đốt
tiền.
Lúc còn nhỏ, với tôi, cái tên Macao vang lên như một huyền thoại,
một lời mời gọi. Macao là giấc mơ của thuyền mành và ngọc thạch. Người Bồ Đào
Nha đến đây từ 1553 và rời viên ngọc châu Á này vào nửa đêm ngày 19 tháng 12
năm 1999, trao trả lại cho Trung Quốc những sòng bạc đầu tiên của họ cùng ma
túy, gái điếm và buôn bán mọi thứ dưới nhiều hình thức… Macao là một trung tâm
tài chính ngoài khơi, một thiên đường thuế, và một cảng tự do không có chế độ
ngoại hối.
Bây giờ, thấy tận mắt, với tôi Macao đẹp như một trái cấm!
Sau khi theo tours cùng đoàn qua Thượng Hải, tôi và hai bạn
người Hoa tách riêng đi Quảng Đông, một trong những thành phố lớn nằm phía Nam
Trung Quốc. Họ dẫn tôi đến thăm em gái đang ở bệnh viện cùng tên thành phố này.
Không phải bây giờ Trung Quốc mới có bệnh viện giải phẫu thẩm
mỹ. Khi Trung Quốc bắt đầu “mở cửa” kinh tế thị trường giống như Việt Nam trước
đây, giới trẻ có cơ hội gặp gỡ tiếp xúc với người nước ngoài, thích vẻ đẹp
phương Tây, mắt hai mí, mũi cao, ngực nở… Họ cuồng nhiệt với phong trào “đổi
mới”, “làm mới lại”. Chuyện cắt mắt một mí thành hai mí, nâng mũi cao hơn, đặt
túi nước cho ngực lớn xưa rồi, bây giờ tiến đến “trò chơi” nguy hiểm, chịu cực
hình đau đớn thân xác nhiều ngày tháng nằm một chỗ: giải phẫu để làm chân dài
hơn, dáng người cao hơn, đang là mốt thời thượng của các cô gái Trung Quốc.
Tôi ngạc nhiên hỏi bạn:
-Họ muốn chân dài hơn để làm gì vậy?
-Chị ơi, đây là cuộc chạy đua gay go, cả chuyên môn lẫn tình
cảm. Không phải cao hơn để đẹp như các ngôi sao hay người mẫu, mà để có thể tìm
một việc làm tốt hay một tấm chồng khá giả. Vì đàn ông ở đây thích phụ nữ cao
chị ạ.
Đang nói chuyện thì Miao, em của bạn, khập khiễng chống nạng
bước tới. Hai chân cô mang hai cái lồng inox nặng nề. Chúng tôi vào căn tin gọi
thức ăn, và để có chỗ ngồi. Chuyện nối chân dài ra là điều làm tôi ngạc nhiên,
tò mò muốn biết. Miao khoảng 25 tuổi. Trông nét mặt cô không được vui, có thể
vết mổ chưa lành.
-Em đau lắm hả?
-Vâng. Đau lắm cô ạ. Em biết thế này, thì đã không vượt hơn ngàn
cây số đến đây để chịu cực hình.
-Ai giới thiệu em?
-Đâu có. Em đọc quảng cáo trong tạp chí Hope. Những dòng quảng
cáo này cứ ám ảnh trong đầu em. Em lùn, lại không đẹp. Đây là nơi có thể làm
thay đổi đời em. Để cao hơn, em phải đến bệnh viện này. Không riêng em, bạn em
cũng dành dụm tiền để mong được cao hơn vài xăng-ti-mét.
-Trời! Chỉ vài xăng-ti-mét thôi?
-Vâng. Khi đến, em đo được 1m54. Bây giờ, cao 1m62. Bác sĩ cho
biết trước, để có kết quả cuối cùng, em phải qua 5 lần mổ, cưa xương, đục
xương. Mỗi lần 3 tiếng đồng hồ. Trong đầu em bấy giờ chỉ nghĩ đến chân sẽ được
dài thêm, người sẽ cao thêm, nên em đồng ý. Không ngờ, em bị nhiễm trùng, mưng
mủ, phải nằm dài nhiều tuần.đau quá, tưởng chừng không chịu nổi. Thể xác đã quá
tệ, mà tinh thần không lúc nào yên, em suy sụp hoàn toàn. Biết như thế này em
đâu đến đây làm gì. Sáu tháng, em mới có thể chống nạng tập đi như hôm nay.
Thật ngông cuồng cô ạ.
Miao khóc, nhưng không hối hận, vì kết quả chân cô đã cao hơn.
Những người lớn tuổi cho rằng tuổi trẻ chạy theo hình mẫu thẩm
mỹ kiểu phương Tây, làm mất bản sắc dân tộc. Nhưng, sau hơn chục năm xám xịt,
tuổi trẻ Trung Quốc cần đẹp hơn, tươi mát hơn. Đất nước Trung Quốc cũng nhờ thế
mà phần nào tươi tắn đa dạng hơn. Thật ra cái đẹp mỗi nơi có mỗi quan niệm
khác, cái nhìn khác. Người ở Cali, Mỹ, thích bơm ngực giả thật lớn, người
Brazil độn mông phồng lên, Người Pháp thích chích mỡ heo vào môi để môi trề ra
như người Nam Mỹ. Đôi môi dày gợi hình ảnh cô gái nhà quê xấu xí, không văn
hóa. Nhưng không thể chê người này có đôi môi dày, có cái mông đồ sộ là quê
mùa, thô tháp… Vì với người khác thì môi dày là gợi cảm, mông lớn là hấp dẫn.
Nhân đây tôi cũng lang bang liên tưởng đến các cuộc thi sắc đẹp,
hoa hậu hoặc người mẫu trên thế giới. Tiêu chuẩn quốc tế, hoa hậu hay người mẫu
phải cao từ 1m70. Hoa hậu thế giới phần nhiều cao từ 1m80 trở lên. Đàn ông châu
Á ít người cao trên 1m70, nên thích phụ nữ thấp hơn họ chút đỉnh để sánh đôi.
Nói khác đi, tiêu chuẩn chọn người đẹp thế giới, phải chăng dành cho người
phương Tây.
Về cái đẹp rất khó nói, khó đưa ra một tiêu chuẩn mẫu mực nào.
Tôi nhớ, một tờ báo đưa hình cuộc thi vợ chồng chênh lệch “đẹp đôi” nhất ở
Pháp. Vợ cao chồng thấp, hoặc vợ mập chồng gầy. Cặp được chọn, cô vợ cao lớn
mập mạp, anh chồng gầy, thấp hơn vai bà vợ một tí. Ban giám khảo đưa ra một câu
hỏi thử trí thông minh anh chồng:
-Anh thấy thế nào khi có người vợ nặng ký, cao to hơn mình?
Anh chồng nhanh nhảu:
-Tôi rất hạnh phúc. Vợ mập mạp thì có nhiều diện tích hơn cho
mình vuốt ve âu yếm.
Và vợ chồng anh được chọn đứng đầu vì câu trả lời dí dỏm này.
*Đi suốt ba tuần, mệt nhưng tôi vẫn thấy chưa đủ để hiểu
biết xứ sở Phù Tang bí ẩn. Truyền thống chiếc mặt nạ trong những vở kịch Nô làm
cho tôi tò mò, muốn biết bộ mặt thật ẩn sau cái mặt nạ đó của người Nhật như
thế nào. Người Nhật không muốn người ta nhận diện và cách sống hằng ngày được
che giấu dưới bộ mặt của họ. Họ muốn giữ mãi truyền thống, cái gì cũng Nhật
hóa, nhưng khi hiện đại hóa thì cũng rất nhanh, nhất là vấn đề tính dục đẩy đến
tận cùng, đến nỗi người phương Tây cũng chào thua. Con người của họ với các nét
hết sức đặc thù, độc đáo, luôn khơi dậy lòng say mê, thu hút sự chú ý và khâm
phục của du khách.
Tokyo - Nhật Bản
Trên đường phố, phụ nữ nhỏ bé, nhuộm tóc đủ màu, mặc áo, váy
nhiều tầng, và chạy lúp xúp. Người ta nói, bây giờ chiều cao của họ đã tăng
nhiều. Theo tài liệu nhân chủng, năm 1900, chân phụ nữ dài 72cm70. Năm 2002 dài
76cm50. Như vậy họ cao thêm 4cm trong một trăm năm. Các nhà dinh dưỡng giải thích:
trong 50 năm trở lại đây, người Nhật đã nuôi bò, dùng những sản phẩm làm từ
sữa, nên hy vọng trong 20 năm tới họ có thể cao thêm 10cm. Hai nước uống sữa
nhiều nhất là Hà Lan và Mỹ cũng là hai dân tộc có tầm vóc cao lớn nhất.
Thì ra, muốn cao cũng không dễ dàng. Phải chờ vài thế hệ sau,
nhưng nếu muốn nhanh chỉ vài tháng thì phải chịu cực hình nối xương như các cô
gái Trung Quốc có thể cao từ 0,5 đến 0,8 xăng-ti-mét.
Quanh họ luôn có một KFC, McDonal, mì sợi Ý, pizza, và nhiều
tiệm bánh ngọt ở mỗi góc đường mời gọi. Những gói gà rán thơm phức, hay
hamburger đầy đủ chất dinh dưỡng với miếng thịt bò, rau xanh, xốt cà đỏ tươi
tươm ra óng ánh. Chỉ mong há miệng cắn ngay một miếng thật to. Thêm cốc coca.
Còn gì tuyệt hơn mỗi khi bụng đói cồn cào. Họ không có thời gian đi chợ, vào
bếp chuẩn bị bữa ăn truyền thống như thế hệ bà và mẹ của họ. Ăn, đối với họ là
những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi. Hình như họ thường xuyên bị stress, nên họ
ăn luôn miệng, rồi phát phì. Họ nghĩ rằng, mập cũng chẳng sao. Sống đâu có bao
lâu mà bắt cái miệng phải nhịn thèm.
Nhưng một số khác cho rằng người không làm chủ được cái miệng
thì sao có thể làm chủ cuộc đời của mình. Hình mẫu của họ là không hông, không
mông, không vú. Gầy đang là mốt. Gầy đến nỗi giơ xương. Người ta không còn thấy
cái bóng của họ nữa.
Những hình ảnh quá mập hay quá gầy của các cô gái Nhật trên
đường phố, làm tôi nghĩ đến sự “cực đoan” của họ có từ trong máu.
Tôi như bị thu hút bởi hình ảnh bên ngoài cũng như phong cách
sống của tuổi trẻ Nhật, mà tôi thường gọi đây là “Thời đại Nippon”. Chất trẻ
của họ vô cùng phong phú, hấp dẫn.
Tóc họ nhuộm đủ màu, những màu thật chói mắt: vàng, đỏ, lục,
xanh… Người lớn lại giấu tuổi tác của mình vào những mái tóc đen nhân tạo. Đàn
ông cũng nhuộm tóc. Mấy chục năm nay, người Nhật đau khổ vì bộ đồng phục, nên
bây giờ trang phục của họ rất phá cách, không theo một style nào cả. Quần bó
rằn ri, chiếc váy ngắn bông hoa rực rỡ, khoác thêm chiếc áo dài rộng, chân mang
vớ hoặc quần bó. Trên người tòn teng máy chụp hình, xử dụng thành thạo.
Người dân địa phương cho
biết, với người Nhật truyền thống, cái đẹp tuyệt đối, mong manh là khi nó phù
du như thiên nhiên và bốn mùa thay đổi vậy. Hoa anh đào là một biểu tượng chúng
chỉ nở trong mười ngày mỗi năm. Họ sẵn sàng vượt hằng ngàn cây số để chụp được
một tấm hình hoa anh đào nở. Ba trăm năm mươi ngày còn lại, họ giữ và sống với
khoảnh khắc thiên thu đó một cách mãnh liệt.
Họ thích dùng hàng hiệu, để chứng tỏ mình thành công. Mốt có
nghĩa là giống người khác. Họ như loài cá, bơi thành đàn, luôn đi cùng một
hướng. Tôi không hiểu tại sao người Nhật thích đi cạnh nhau. Đó là bản năng tập
thể. Họ thích đồ dùng nhỏ bé, xinh xắn. Tất cả đều được “tiểu hình hóa”. Tivi,
laptop, ngày càng mỏng đến siêu mỏng để tiết kiệm diện tích.
Người Nhật được xem là một dân tộc hiện đại, hội nhập nền văn
minh thế giới nhanh nhất. Nhưng họ không thích học thêm một thứ tiếng nào nữa
ngoài tiếng Nhật. Nếu ai đã từng học tiếng Nhật, mới hiểu được tại sao họ khổ
sở khi học tiếng nước ngoài. Họ có ba bảng mẫu tự Katakana, Hiragana, và Kanji.
Kanji rất phức tạp khiến một người Nhật chỉ có thể đọc báo lúc 18 tuổi. Những
bảng mẫu tự mà một trong số đó gồm 7000 dấu hiệu. Quá nhiều với một cái đầu,
ngay cả khi họ là người Nhật!
Thú vị nhất là khi quan sát các cô gái Nhật đi. Họ không sải
những bước chân dài thoải mái, mà họ chạy lúp xúp, lúp xúp. Ảnh hưởng của thời
kỳ kimono. Khi mặc chiếc áo truyền thống này, phụ nữ Nhật chỉ có thể bước từng
bước ngắn, rất nhanh. Vì kimono không xẻ hai bên như xường xám, hay xếp ly như
váy đầm nên bước đi bị hạn chế.
Đó là tuổi trẻ nhìn thấy trên đường phố. Đó là mặt nổi của tuổi
trẻ thời đại Nippon.
Còn những cô gái được mệnh danh là Samurai mới của Nhật thì sao?
Trước đây, phụ nữ Nhật không bước vào công sở. Họ chỉ ở nhà an
phận cúi đầu phục vụ chồng con. Bây giờ, tình hình đã khác. Họ là những giám
đốc, những nhà làm kinh tế giỏi. Họ giành chỗ đứng của nam giới và thành công.
Chân dung các nàng Samurai mới này đã tạo nên những đường viền cho nước Nhật
mới. Họ làm ra tiền, mua sắm hàng hiệu, thay đổi xe hơi, mua bất động sản. Họ
kích thích nền kinh tế Nhật phát triển.
Cũng có người lập gia đình, có con, nhưng phần lớn không xem gia
đình là quan trọng. Họ nghĩ rằng mình nhiều thứ đáng giá hơn để làm, không nhất
thiết phải có một người đàn ông trong cuộc đời mình. Họ thích làm nhiều tiền để
học thêm các ngành khác, để du lịch. Họ cô đơn và che giấu sự cô đơn bằng cách
chơi với búp bê, còn gọi là ningyo. Ningyo đang là
mốt, nó có vẻ đẹp lẳng lơ, áo quần bằng voan hay đăng ten mỏng tanh, lãng mạn.
Mắt phủ phấn gạo trắng bệch như gheisha. Có vẻ như đàn ông không còn thật sự
hứng thú với phụ nữ Nhật Bản hiện đại nữa chăng? Vì quá quan tâm với công việc,
các cô gái đã đánh mất cái tôi sâu kín của mình. Qua búp bê, họ thấy lại bóng
dáng đàn ông như ý mình mong muốn. Búp bê chứa đựng những giấc mơ và khát vọng
của họ. Búp bê chính là con người khác của họ.
Đàn ông Nhật cũng chơi búp bê, hay nói chính xác hơn họ “chiếm
đoạt” nó, họ xem chúng như tình nhân, thay áo quần cho chúng mỗi ngày, trau
chuốt, chăm sóc chúng với sự say mê, thú vị, ảo tưởng mình có người yêu thật
sự. Họ tìm đến chúng để yên tâm hơn, “Người yêu” của họ luôn trẻ con, thơ ngây,
không bao giờ già và nhất là không “ruồng bỏ” họ khi họ thất nghiệp.
Do vậy, ngành công nghiệp làm búp bê ở Nhật rất phát triển.
Người ta nặn ningyo bằng đất sét trắng. Tay chân gắn quanh một
ống hình cầu. Họ nghiền nát vỏ sò làm mắt và răng cho răng có ánh bạc lấp lánh
và mắt có ánh nhìn huyền hoặc. Búp bê có tóc như thật, trên gương mặt đôi môi
được make up tỉ mỉ nhất, còn áo quần theo kiểu quý tộc hoặc bụi bụi. Kết quả
của những tác phẩm nghệ thuật này, các phòng triển lãm và người sưu tập săn đón
y như những chiến lợi phẩm. Nhiều ningyobán ra cả triệu Yên.
Họ hiện đại với cái nhìn phóng khoáng về sex. Yêu và sống chung
không hôn nhân cũng đang là mốt. Họ bảo: -“Trong tiếng Nhật không có từ nhà
tôi”. Khó khăn về nhà ở, không tin vào tương lai, tính dục an toàn là khái
niệm được tuổi trẻ chọn lựa.
Họ, cả nam và nữ, tạo ra những người tình ảo. Sau mỗi ngày, rời
công việc, đóng cửa phòng, họ bám vào máy tính, để giao du với người tình ảo.
Những tình nhân trên mạng trả lời bất cứ thắc mắc nào, đòi hỏi nào, ngay cả đáp
ứng chuyện làm tình mà họ yêu cầu, cũng đẹp, nóng bỏng như người tình bằng da
bằng thịt.
*Tôi đã từng đi Thái Lan theo
tours, nhưng lần này tôi thích đi một mình Cái “mê” nhất của tôi khi qua đây là
massage, bấm huyệt. Ở khách sạn Peninsula, dùng ca nô qua sông là tới một con
đường nhỏ. Từ đầu đến cuối đường là cửa tiệm massage. Đây là phố massage bình
dân.
Tại khách sạn năm sao như Peninsula, có rất nhiều loại massage: thư giãn, chữa trị, tẩy chất độc… tùy theo khách chọn, giá tiền khác nhau. Nhưng nhìn chung, giá cuối cùng từ 150 đô trở lên, thì tại đây, chỉ một loại: massage, bấm huyệt thư giãn, 5 đô một tiếng đồng hồ. Phòng dài, nhỏ hẹp. Những chiếc nệm 8 tấc đặt dưới đất cách nhau chỉ một tấm màn kéo bằng nilon. Khách thay áo quần của mình bằng bộ pyjama thoải mái. Các cô gái phục vụ cho khách nữ. Và các chàng trai phục vụ cho khách nam hoặc cho khách nữ nào muốn làm mạnh tay, “bạo lực” hơn. Chỉ cần vài phút lướt bàn tay trên người là những khách ghiền massage như tôi có thể biết họ chuyên nghiệp hay không. Họ dùng bàn tay và cùi chỏ, ấn vào cơ bắp đang căng ở cánh tay, bắp chân, đùi, xương cốt, làm nhanh gọn hiệu quả đến nỗi tôi ngủ khi nào không biết. Họ im lặng làm việc. Tôi im lặng thư giãn, và… ngủ. Thật tuyệt!
Bangkok - Thái Lan
Tại khách sạn năm sao như Peninsula, có rất nhiều loại massage: thư giãn, chữa trị, tẩy chất độc… tùy theo khách chọn, giá tiền khác nhau. Nhưng nhìn chung, giá cuối cùng từ 150 đô trở lên, thì tại đây, chỉ một loại: massage, bấm huyệt thư giãn, 5 đô một tiếng đồng hồ. Phòng dài, nhỏ hẹp. Những chiếc nệm 8 tấc đặt dưới đất cách nhau chỉ một tấm màn kéo bằng nilon. Khách thay áo quần của mình bằng bộ pyjama thoải mái. Các cô gái phục vụ cho khách nữ. Và các chàng trai phục vụ cho khách nam hoặc cho khách nữ nào muốn làm mạnh tay, “bạo lực” hơn. Chỉ cần vài phút lướt bàn tay trên người là những khách ghiền massage như tôi có thể biết họ chuyên nghiệp hay không. Họ dùng bàn tay và cùi chỏ, ấn vào cơ bắp đang căng ở cánh tay, bắp chân, đùi, xương cốt, làm nhanh gọn hiệu quả đến nỗi tôi ngủ khi nào không biết. Họ im lặng làm việc. Tôi im lặng thư giãn, và… ngủ. Thật tuyệt!
Tôi nghe nói sở thú ở đây hoang dã, du khách ngồi trong xe có
thể tiếp cận với thú rừng. Trước khi lên máy bay về nước, tôi nhờ khách sạn
thuê giùm một chiếc xe để đi sở thú rồi đến phi trường.
Sau nửa tiếng đồng hồ nhìn tận mắt những bộ mặt cọp, beo, hươu
cao cổ, với những con mắt to, lỗ mũi ươn ướt, râu ria tua tủa, mặt mày dữ tợn
tôi nhìn đồng hồ, thấy còn một tiếng nữa là chuyến bay của tôi cất cánh. Thế là
bon bon … xe chạy.
Nhưng đường cứ dài hun hút, xe cứ chạy bon bon… thời gian cứ mặc
sức trôi mà tôi vẫn chưa thấy phi trường đâu cả. Nóng lòng tôi hỏi bác tài:
-Đây là đường đến phi trường phải không?
Bác tài:
-Ok.
Xe lại chạy. Đường cứ dài. Thời gian cứ trôi.
Tôi lại hỏi:
-Airport?
Bác tài:
-OK!
Cứ Airport thì OK. -Airport? -OK! -Airport? -OK!
Tôi nhìn lại đồng hồ. Thời gian không còn nữa. Có thể chuyến bay
của tôi sắp cất cánh. Giờ nỗi sợ hãi của tôi xem ra còn hơn lúc nhìn thấy những
con thú hoang áp sát mặt vào cửa kính ôtô. Bởi lần này có nguy cơ trễ chuyến
bay đón giao thừa ở quê nhà… Bởi tôi nhe đồn rằng du khách đã từng bị bắt cóc
trong khi du lịch… Hai bên đường đồng không mông quạnh, chẳng một bóng người,
bóng nhà cửa, thi thoảng mới có một chiếc xe tải vụt qua. Biết đâu bác tài này
chở đến chỗ trống để giết tôi, lấy tiền bạc?
Đã sợ càng thêm sợ. Tôi lại hỏi:
-Airport?
-OK!
Trời ơi, hai tiếng OK ấy, xem ra không thua gì một lời đe dọa
khủng khiếp. Mồ hôi tôi vã ra khi biết bác tài chẳng hiểu gì tiếng Anh, cũng
chẳng biết đường ra phi trường. Tôi nói bác tài dừng xe, và ra hiệu đón một xe
khác đang chạy tới.
Thì ra bác tài đi nhầm đường. Lại đường một chiều, nên khi người
ta hướng dẫn trở về sân bay, xe phải vòng lại thật xa.
Cuối cùng tôi
cũng thở dài nhẹ nhõm, khi chuyến bay đưa tôi từ Thái Lan đáp xuống sân Tân Sơn
Nhất. Dọc đường mùa xuân ấm áp vây quanh nắng, gió, mai, đào rở rộ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét