Những Tháng Ngày Gian Khó (Phần Kết)
KIẾM
KẾ SINH NHAI
Thầy Trần Công Tín
Được trả tự do (tháng 11-1976) tôi về Huế nương tựa vào gia đình
và:
- Bán lần 1 số đồ đạc để sinh sống: xe gắn máy, tivi, quạt điện,
máy cassette, áo quần, sách vở rồi… tư trang
- Đưa đơn xin việc (trí óc) nhưng nơi nào cũng từ chối.
- Theo chính sách thì ai không có công ăn việc làm (thất nghiệp)
thì đi kinh tế mới để tăng gia sản xuất. Mà chân yếu tay mềm như tôi thì làm sao
phá rừng làm rẫy trồng trọt được? Do đó đành phải kiếm một chân xã viên để gọi
là có công ăn việc làm. Hồi đó Nhà nước không chấp nhận lối làm ăn tư nhân, cá
thể.
- Đa số đều vào Hợp tác xã mành trúc, chổi đót và thêu ren vì vào
đó tiền đóng góp ít (chỉ một trăm đồng thôi ngang với nửa chỉ vàng) trong khi Hợp
tác xã xây xát, bánh kẹo tiền cổ phần đến 1000 đồng (5 chỉ vàng). Vàng hồi đó rất
quý, ai có chừng vài lượng là giàu rồi và lo chôn cất vì mặt hàng này do nhà
nước quản lý.
- Thế là tôi vào làm ở Hợp tác xã Mành trúc, lương chẳng bao
nhiêu chỉ mươi đồng/tháng chưa đủ chi dùng (phải thâm tiền nhà nhiều lắm) nhưng
được tiếng là có việc làm khỏi đi kinh tế mới.
- Ngoài làm việc ở Hợp tác xã tôi còn chạy chợ để kiếm thêm ít
nhiếu.
- Đi lang thang thấy trước các cửa hàng
mậu dịch nhà nước có người sắp hàng (mua gì không biết) thì mình cũng đứng vào
và mua: quần lót, tất, phụ tùng xe đạp, mùng, gối, vải, mũ, kẹo, bánh… Những thứ
này họ bán cho dân chúng 1 ít không cần sổ hoặc tem phiếu. Ai may mắn gặp dịp
thì mua được đôi chút và đem ra chợ bán chênh lêch kiếm lời. Bán hết lanh
lắm vì giá khi nào cũng hạ hơn chợ. Lẽ dĩ nhiên khi bán vậy thì các mậu dich
viên cũng để giành cho mình 1 số lớn. Thành ra hồi đó mậu dịch viên rất uy quyền
và tư lợi nhiều lắm.
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng
(Trần tế Xương)
Kinh doanh kiều này mỗi tháng tôi cũng kiếm được mươi đồng. Ngoài ra còn mua hàng tích trữ (ít thôi vì nhiều lắm là bị quy
tội tư bản, đầu cơ lũng đoạn thị trường) chờ khi cao thì bán: ngày mùa thì dầu
phụng khá rẻ mình mua 1 ít và qua mùa mưa thì bán. Cũng kiếm được trung bình năm
đồng/tháng. Ngoài ra thì nhờ cha mẹ trợ cấp và bán đồ đạc cá nhân. Tình trạng này nếu kéo dài thì quá nguy khốn.
Nhưng may thay (cũng may!!) bắt đầu năm 1985 thì mở cửa và đến
1990 thì dễ thở: Bắt đầu công nhận quyền sử dụng đất (nghĩa là mình có thể tự
do khai thác miếng đất của cha mẹ để lại mà không mang tiếng là bóc lột, là
ngồi mát ăn bát vàng là phát canh thu tô, là buôn gian bán lận...). Do đó tôi xin phép ba mẹ tôi làm cái quán nho nhỏ để kinh doanh lặt vặt, sau
này thấy êm êm tôi xây chắc chắn khang trang đểcho thuê. Thu nhập
cũng tạm được hơn lương xã viên. Và vì không còn sợ đi kinh tế mới nữa nên tôi
cũng xin thôi làm ở Hợp tác xã… Thong thả lắm! May ghế!
Lúc đó mới dám nghĩ chuyện cưới vợ (tôi lấy vợ năm 1988 ngoài 40
tuổi. Quá muộn!) Nhưng cũng sinh được 1 trai, 1 gái nay đã khôn lớn và tạm có
việc làm thu nhập được được. Thôi thế cũng yên phận. Ngó lên thì chẳng bằng
ai nhưng ngó xuống thì chẳng ai bằng mình. May quá!!!
Vợ tôi thua tôi 10 tuổi và là giáo viên tiểu học thu nhập cũng
tạm được. Lại có tiêu chuẩn tem phiếu khá hơn dân thường (như tôi). Con cái
cũng được ăn theo và hưởng tiêu chuẩn cao hơn chút chút. May quá! Nay vợ
tôi về hưu từ lâu và có lương hưu tạm đủ sống còn tôi thì cho họ thuê 1 quán
làm bánh kem cũng đủ chi dùng hạn chế.
Tóm lại cuộc sống không đến nỗi nào: về kinh tế thì không than
túng thiếu. (vì biết “tri túc”) về tinh thần thì vẫn vui vẻ (vì chịu “an
bần lạc đạo“, ”thượng bất oán thiên hạ bất vưu nhân”. Trên không oán trời, dưới
không trách người).
Thêm vào đó nhà nước cũng có cái nhìn khác về Ngụy nên đời sống
tinh thần dễ thở hơn nhiều chứ nghĩ lại hồi 76 mà ớn: hở một chút là bị phê
bình: tay sai Mỹ ngụy, đầu óc còn tăm tối chưa biết tiếp thu ánh sáng cách
mạng. Do đó tôi rất mặc cảm, mình không dám là mình, lời ăn tiếng nói đều dè dặt
hết sức.
Nhà văn Quang Đặng (trong tùy bút “còn đó ân tình”) đã mô tả khá
chính xác tâm trạng của tôi lúc đó.
………………………………………………………………..
“Vừa rồi một
người bạn cũng học lớp 10B1, kể lại cuộc gặp gỡ ly kỳ giữa anh và một thầy giáo
cũ ở trường Nguyễn Huệ. Nhớ hay quên trong lần gặp này không có ý nghĩa gì. Cả
thầy lẫn trò đều muốn quên đi thân phận mình.
Sau năm 75 bạn tôi từ Tuy Hòa về lại Huế. Lý lịch xấu không thể tiếp tục học,
không tìm được việc làm nên anh đi TNXP. Năm 77 nhờ tờ giấy chứng nhận tham gia
TNXP, anh thi đậu vào Đại học Khoa học Huế. Nhà anh hồi ấy rất nghèo. Cả nhà
chỉ có một chiếc xe đạp, phải nhường cho hai cô em gái học ở trường Sư phạm xa
hơn. Mỗi buổi sáng, anh phải đi bộ từ An Hòa đến trường hơn 5 cây số. Có lần
trên cầu Tràng Tiền, anh gặp một người trông rất quen. Ốm, nhỏ con. Bộ đồ cũ.
Đôi dép cũ. Chiếc xe đạp cũng cũ đang đạp ngược chiều đi tới. Lúc cả hai sắp
giáp mặt nhau, anh nhận ra đó là thầy giáo từng dạy mình ở trường Nguyễn Huệ
Tuy Hòa. Anh cúi đầu chào, nhưng người ấy nhìn thẳng phía trước, xem như không
quen biết với anh. Vài lần sau trên đường Trần Hưng Đạo, gặp người ấy anh lại
gật đầu chào. Đáp trả lại, vẫn không có gì khác hơn là cái nhìn thẳng. Anh
chẳng buồn cũng chẳng bận tâm về điều này. Dù không nhìn anh vì bất cứ lý do
gì, thầy vẫn mãi mãi là thầy của anh.
Lần sau cùng không nhớ là lần chạm mặt lần thứ mấy, người ấy cùng chiếc xe đạp
thắng cái kít trước mặt anh trên cầu Phú Xuân:
“ Mi là ai mà mi chào tao?”
Chủ nhân của ánh mắt nghi ngại và chiếc xe đạp cũ chính là thầy Trần Công Tín
mới đi học tập về và bạn tôi, Trần Đình Anh là người trò học ấy.
Tôi không còn mặc cảm nữa và mình đã dám là mình rồi năm 2000
lần đầu tiên trường Nguyễn Huệ Tuy Hòa tổ chức kỉ niệm 45 năm thành lập và mời tất
cả những vị đã từng giảng dạy tại trường về tham dự (không phân biệt Ngụy và Ta, bị sa thải hay được lưu dung). Vì biết ai cũng khó khăn nên Hội ái hữu
học sinh Nguyễn Huệ gởi tiền về đầy đủ dồi dào để quý thầy cô ở xa có thể
về tham dự.
Đây là lần đầu tiên tôi xuất hiện với tư cách là Thầy. Ban đầu
thì có e dè sợ sệt:
Hàng thân lơ láo phận mình ra đâu?
(Kiều)
Nhưng khi vào Họp mặt thì không khí rất thân tình không phân
biệt Ngụy Ta gì cả. Học trò lại tình cảm lắm lắm. Tất cả chỉ biết ông đó
là Thầy mình thế thôi và đối đãi rất kính trọng lễ phép. Thật kỉ niệm ấm áp không thể nào quên.
Trông dịp này có sự hiện diện của anh Hiệu trưởng Nguyễn Đức
Giang ở Đan Mạch về lần đầu tiên tham dự. Tất cả đều thương yêu tôn trọng lẫn
nhau.
Thật ấm áp tình người. Thiên đường là kẻ khác.
Quãng thời gian về sau thì cuộc sống tuy không được như xưa
nhưng càng ngày càng dễ chịu (về cách đối đãi cũng như thu nhập hàng
tháng). May quá!!!
Rồi đầu thập niên 2010 học trò nhiều người làm ăn phát đạt do đó
thường tổ chức họp lớp họp khóa luôn và đài thọ tàu xe để quí thầy cô về dự. Tiêc
tùng linh đình, quà cáp đem về. Vui quá!! Cũng may.
Đầu năm 2013 tôi mắc bệnh hiểm nghèo, sức khỏe yếu kém nên nhiều
cuộc Hội ngộ không tham dự được. Tuy vậy vẫn có quà của học trò gởi về như
thường. Vui quá! Chỉ mình tôi là không đi mà vẫn có quà thôi. Ngoài ra dịp này
dịp khác vẫn nhận khá nhiều ân tình phương xa. Cảm động biết mấy!
Bây giờ đã 75 tuổi, trải qua biết bao sóng gió gian truân, tôi
an phận thủ thường và vì sức khỏe yêu kém nên đa số thời gian đều ở nhà làm bạn
với FB cùng tiếp đón các học trò cũ đến thăm. Tình cảm chất ngất và vì họ tưởng
gặp tôi lần này là Lần Cuối (căn cứ vào bệnh án trầm trọng và cũng theo kinh
nghiệm của những bệnh nhân khác; mắc thứ đó thì chỉ vài năm là tái phát) nên
cũng ân cần hơn nhiệt tình hơn… Té ra chẳng có lần nào là Lần cuối cả. Cứ phây
phây ra (đến nay đã 6 năm rồi không biết họ có “sốt ruột” chăng ?).
Tôi hiện giờ tuy không xông xáo được không ngồi lâu được, không du lịch đươc nhưng vẫn trò chuyện và ăn uống bình thường tuy có dè
dặt đôi chút. Vậy thôi! Cũng May!
Trần Công Tín
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét