Cố thi sĩ Du Tử Lê
DU TỬ LÊ MỘT ĐỜI HỆ LỤY VÌ THƠ
Đỗ Bình
Khoa học ngày nay tiến bộ vượt bực con người đã khám phá ra những hành tinh mới trong vũ trụ, những mạng không gian ảo của điện toán… thì tính lãng mạn của con người cũng bớt đi. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật nhiều loại hình thể bị ảnh hưởng nên thay đổi chuyển hình do đó thơ hôm nay hiếm chất mượt mà nhẹ nhàng làm đẹp ngôn ngữ. Trong thế giới vật chất con người đã được hưởng quá nhiều thứ giải trí nên Thơ ngày càng ít người đọc, và Nhà thơ cũng ít được xã hội trân trọng như ngày xưa! Thơ là bộ môn nghệ thuật của Lời nên rất kén người đọc, đòi hỏi người thưởng lãm phải đồng điệu với thi nhân để cảm nhận cái hay, cái đẹp về ý nghiã thâm sâu của thơ qua ngôn ngữ, vì mỗi nhà thơ là một con đường sáng tạo.
Trong thi ca của Việt Nam, ở Miền Bắc trước năm 1954 và Miền Nam trước năm 1975 nhà thơ tuy không nhiều nhưng vườn thơ nở rộ sắc màu, thi sĩ thời đó rất được xã hội trân trọng vì đã tạo cho mình một chỗ đứng riêng trong làng thơ qua nét thơ đặc thù, và phong cách sống. Sau biến cố năm 1975 trong những đoàn người ồ ạt bỏ nước ra đi tìm tự do có cả văn nghệ sĩ; trong số đó có thi sĩ Du Tử Lê, tên thật là Lê Cự Phách. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, Bắc Việt. 1954 di cư vào Nam cùng với gia đình và theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến Tâm Hồn", đăng trên tạp chí Mai. Ông cho biết về bút hiệu này lấy từ ý nghĩa bài Đường Thi: Du Tử Ngâm (Khúc ngâm của đứa con đi xa) của Mạnh Giao.
Du Tử Ngâm
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy.
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
Báo đắc tam xuân huy.
Bản dịch của Trần Trọng San
“Mẹ hiền sợi chỉ cầm tay
Khâu lên tấm áo trước ngày con đi
Đường kim khăng khít chinh y
Sợ con chậm trễ không về lại ngay
Ai rằng tấc cỏ lòng này
Mà đền đáp nỗi ánh trời ba xuân ?”
Khâu lên tấm áo trước ngày con đi
Đường kim khăng khít chinh y
Sợ con chậm trễ không về lại ngay
Ai rằng tấc cỏ lòng này
Mà đền đáp nỗi ánh trời ba xuân ?”
Nói về người con đi xa còn là ca khúc vang bóng thời kháng chiến: "Lời Du Tử" sáng tác của Nguyễn Đình Phúc, người nhạc sĩ phổ thơ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam. Ca khúc Lời Du Tử do danh ca tài tử Ngọc Bảo trình bày ở Hà Nội nước năm 1954 đã làm say đắm bao lòng người.
Lời Du Tử
“Chiều nay biết về nơi đâu,
Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu.
Ai đi trong lớp sương sa,
Người về đâu tá, tới nơi quê nhà.
Dừng nơi đây, dừng nơi đây,
Ðường dài chí lớn, ta dừng nơi đây.
Trông mây bay, trông mây bay về nơi quê nhà,
Ta buồn chỉ có mình ta.
Sáo vi vu u ù u, khúc nhạc du,
Ðàn ai xa vắng khóc than mùa thu.
Trông hoa lá rụng tơi bời,
Trong lòng người nghệ sĩ lệ rơi rơi.
Từ ra đi, bước lưu ly,
Ðường chông gai đâu sờn chí nam nhi.
Mà nay lòng nhớ quê hương,
Trong chiều sương sa để lệ sầu vương.
Không, không, ta quyết đi xa,
Có đâu ngồi nhớ tới nơi quê nhà.”
“Chiều nay biết về nơi đâu,
Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu.
Ai đi trong lớp sương sa,
Người về đâu tá, tới nơi quê nhà.
Dừng nơi đây, dừng nơi đây,
Ðường dài chí lớn, ta dừng nơi đây.
Trông mây bay, trông mây bay về nơi quê nhà,
Ta buồn chỉ có mình ta.
Sáo vi vu u ù u, khúc nhạc du,
Ðàn ai xa vắng khóc than mùa thu.
Trông hoa lá rụng tơi bời,
Trong lòng người nghệ sĩ lệ rơi rơi.
Từ ra đi, bước lưu ly,
Ðường chông gai đâu sờn chí nam nhi.
Mà nay lòng nhớ quê hương,
Trong chiều sương sa để lệ sầu vương.
Không, không, ta quyết đi xa,
Có đâu ngồi nhớ tới nơi quê nhà.”
Nhà thơ Du Tử Lê tính rất nghệ sĩ, cởi mở, thích hội hè giao du với bằng hữu không phân bệt xuất thân là ai. Ông là cựu sĩ quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vả có một thời từng sống hào hùng nơi chiến trường làm tròn nhiệm vụ là phóng viên chiến trường. Ông là thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn nhà thơ Du Tử Lê được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ông di tản sang Hoa Kỳ năm 1975 ở miền Nam California tiếp tục nghề viết, và từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân Chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. Ông đã xuất bản 77 tác phẩm đủ thể loại. Ông là nhà thơ châu Á duy nhất được phỏng vấn và có thơ đăng trên hai nhật báo lớn của Hoa Kỳ: Los Angeles Times (1983) và New York Times(1996. Thơ ông cũng đã và đang được đưa vào giảng dạy, làm tài liệu nghiên cứu, đọc thêm tại tại một số trường đại học Hoa Kỳ và châu Âu. Năm 1998, nhà xuất bản W. W. Norton, New York đã chọn Du Tử Lê vào một trong năm tác giả Việt Nam để in vào phần "Thế kỉ 20: thi ca Việt Nam" khi tái bản tuyển tập World Poetry An Anthology of Verse From Antiquity to Our Present Time (Tuyển tập Thi ca thế giới từ xưa đến nay). Trong cuốn Understanding Vietnam, tác giả, giáo sư Neil L. Jamieson đã chọn dịch một bài thơ của Dư Tử Lê viết từ năm 1964. Cuốn sách này sau trở thành tài liệu giáo khoa, dùng để giảng dạy tại các đại học Berkeley, UCLA, và Cambridge, London.
Trước năm 1975 dù nhà thơ Du Tử Lê được giải văn chương toàn quốc nhưng chỉ trong giới mộ điệu thơ biết đến, còn đại chúng biết đến ông qua bài thơ Trên Ngọn Tình Sâu mà ông làm tặng cho người yêu Huyền Chậu, được nhạc sĩ Từ Công Phụng phổ thành ca khúc phát hành trên băng nhạc và đài phát thanh. Sau này ra hải ngoại tên tuổi Du Tử Lê càng được phổ biến rộng đến công chúng nhờ những tờ báo, tạp chí ông làm chủ biên và cộng tác, trong đó có nhiều lần gây xôn xao công chúng vì những bài tranh luận sôi nổi. Người ta biết đến nhà thơ nhiều vì ông thường đi đây đó diển thuyết về văn học, cũng như xuất hiện ở đài truyền thanh, truyền hình trả lời phỏng vấn. Nhưng có lẽ nhờ những ca khúc phổ thơ của ông đã làm thổn thức bao tâm hồn công chúng.
Những nhạc sĩ đã phổ thơ Du Tử Lê:
Phạm Đình Chương: “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”, “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”, “Quê Hương Là Người Đó”, Trần Duy Đức:“Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời”, “Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau”, Nguyên Bích: “Hiến Chương Yêu”, Đăng Khánh: “K. Khúc của Lê”, Anh Bằng: “Khúc Thụy Du”, Phạm Duy: “Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau”, Hoàng Quốc Bảo: “Người Về Như Bụi”, Nguyễn Hiền: "Tiếng Hát Ru Tôi"; Phan Nguyên Anh: "Thu Hồng"; Ngô Anh Quang: "Một Lần Anh Qua Đây"; Vũ Thành An: "Người Buồn Tháng Chạp"…
Phạm Đình Chương: “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”, “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển”, “Quê Hương Là Người Đó”, Trần Duy Đức:“Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời”, “Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau”, Nguyên Bích: “Hiến Chương Yêu”, Đăng Khánh: “K. Khúc của Lê”, Anh Bằng: “Khúc Thụy Du”, Phạm Duy: “Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau”, Hoàng Quốc Bảo: “Người Về Như Bụi”, Nguyễn Hiền: "Tiếng Hát Ru Tôi"; Phan Nguyên Anh: "Thu Hồng"; Ngô Anh Quang: "Một Lần Anh Qua Đây"; Vũ Thành An: "Người Buồn Tháng Chạp"…
Nhà thơ Du Tử Lê theo khuynh hướng Thơ Mới thể thơ xuất hiện ở đầu thế kỷ trước. Ông thích làm mới thơ văn nên đã cắt vụn câu, sử dụng những dấu chấm, dấu phảy theo ý mình mà không theo nguyên tắc nên bị cho là thơ lập dị! Vì muốn tìm con đường riêng để đi nên thơ của Du Tử Lê ngôn ngữ rất rất lạ, có chữ rất mộc mạc dễ hiểu, có chữ rất khó hiểu rối mù để câu thơ mang hình ảnh nửa hiện thực nửa hư cấu diễn tả vè tình yêu, hạnh phúc và nỗi chết:
Xác Định
"Hạnh phúc chỉ là lời xúi gạt
Buồn em ép tím đóa linh lan
Chân trời đã khép. Thôi đừng hỏi
Ai xác ve khô đợi trả hồn"
6-91
Chân trời đã khép. Thôi đừng hỏi
Ai xác ve khô đợi trả hồn"
6-91
Trước năm 1975 thơ của ông ít nói về chiến tranh, về những thân phận con người trong chiến tranh dù rằng ông từng là ký giả chiến trường. Vào năm 1968 khi biến cố tết Mậu Thân CS gieo tang tóc trên khắp Miền Nam, cuộc chiến đã thiêu hủy bao nhà của, cướp đi bao sinh mạng mầm sống con người, đó là nỗi ám ảnh kinh hoàng của mọi người mà chẳng cần đến một tâm hồn nghệ sĩ mới thốt lên lời ai oán. Ai đã từng là nạn nhân của chiến tranh đều phải sơ sự tàn ác hủy diệt của nó. Ngoại trừ những kẻ chủ chiến cố tình phát động chiến tranh, xem sinh mạng con người như cỏ rác dùng để đạt chiến thắng với bất cứ giá nào!. Còn người yêu hòa bình rất qúy trọng sinh mạng, người dân thường và người lính ở hai bên đều yêu hòa bình. cổ nhân có câu: «dân vi qúy xã tắc tứ chi.». Nhưng khi hai bên đang chiến đấu mà chỉ một bên muốn ngưng chiến vì nhân danh hòa bình thì phải chăng trong ý muốn đó có chút phản chiến, buông bỏ!? Sự ngưng chiến chỉ một bên sẽ làm lợi cho phía bên kia lợi dụng làm mất tinh thần đối phương để xâm chiếm ? Trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt đó có nhiều ca khúc rất hay đã diễn tả về người lính nhớ nhà, nhớ người yêu, về sự mong ước hòa bình nhưng không bị cho là phản chiến vì người lính Việt Nam Công Hòa bản chất rất nhân bản không thích chiến tranh. Họ chiến đấu chỉ làm bổn phận bảo vệ tự do quê hương mang sự yên lành cho xóm làng, dân chúng. Nhà thơ Du tử Lê lúc đó là một sĩ quan thuộc ngành Tâm Lý Chiến nhưng tâm hồn lại đa cảm của một thi nhân nên đã viết bài tho tình Khúc Thụy Du hơn 100 câu để diễn tả về tình yêu lứa đôi ẩn chứa sự trắc trở về mối tình của mình, trong đó có thân phận con người trong chiến tranh. Nhưng rất tiếc bài thơ bị kiểm duyệt cắt xén chỉ còn lại bài thơ tình mà bản thảo cũng bị thất lạc! Chẳng ai biết được những câu thơ bị bị xóa bỏ có mang tính phản chiến hay không ? Nhưng chắc cắn một sĩ quan tâm Lý Chiến không thể viết một bài thơ quá hiện thực có những hình ảnh ghê rợn của chiến tranh diễn tả về sự mất còn, giữa cái sống và cái chết của người lính trong chiến trận. Số phận bài thơ Khúc Thụy Du cũng có lúc chìm nổi, bị lãng quên suốt một thời gian dài hơn mười lăm năm đến khi được phổ thành ca khúc mới chắp cánh bay vào tâm hồn công chúng. Bài thơ nói về tình yêu và thân phận con người được nhạc sĩ Anh Bằng chọn lọc sắp xếp lại câu thơ phổ thành ca khúc trữ tình tuyệt vời. Du Tử Lê đa tài và cũng rất đa tình, bài thơ Khúc Thụy Du là chữ ghép của chữ lót "Thụy" của người ông yêu với chữ "Du" tên bút danh của mình. Thụy Châu là tên thật của cô sinh viên ngành Dược, con của một gia đình rất giàu ở Sài Gòn và có quốc tịch Pháp mà Du Tử Lê yêu say đắm và đang theo đuổi. Thuở ấy Du Tử Lê đã nổi tiếng là tài hoa, tặng phẩm tình cao qúy nhất của ông là những bài thơ làm tặng người yêu mà sau đó đã trở thành vợ và mẹ các con của ông. Bài thơ ngân lên giai điệu bồn, cuôc tình tưởng là trăm năm nhưng ra hải ngoại hạnh phúc không tròn tất cả chỉ còn lại kỷ nệm trong lời thơ giai điệu:
"như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em...
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em...
Thụy ơi và Thụy ơi
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể"
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể"
Ở hải ngoại, thơ của Du Tử Lê thường viết về tình yêu và thân phận người tha hương. So với những người bạn cùng thế hệ thì ông là người may mắn hơn các bạn vì đã đi thoát khỏi quê hương khi Miền Nam ở trong những năm khốn khó nhất nên không bị tù đày! Nhà thơ Du Tử Lê thiên về thơ tình và không phải là ngòi bút tranh đấu cho tự do quê hương nên thơ của ông không có chất hào khí ngút trời, không có hận thù, không có nỗi buồn sâu thẳm của ngục tù! Thơ ông chỉ là mật ngọt của tình yêu vừa là trái đắng của hạnh phúc đượm chút triết lý nhân sinh. Dù nói về tình yêu lứa đôi, tình vợ chồng, tình mẹ, hay về thân phận của người tha hương thì trong ngôn ngữ đó đều có những hình ảnh trừu tượng phảng phất từ những triết lý của tôn giáo. Những con chữ rời, chữ ghép nhau, hay những dấu chấm, dấu phảy trong câu thơ được sử dụng như những khúc nhịp chỏi, làm đổi cầu trúc, cách xếp nhịp của câu thơ lục bát:
Phố cao,
gió nổi,
bóng mờ
(nhịp 2/2/2)
Đêm lu,
trời nặng,
tôi gù lưng,
đi
(nhịp 2/2/3/1)
gió nổi,
bóng mờ
(nhịp 2/2/2)
Đêm lu,
trời nặng,
tôi gù lưng,
đi
(nhịp 2/2/3/1)
Mặc dù nhà thơ có cố gắng tìm tòi làm mới một số điều trong thơ, nhưng có những câu thơ vẫn trở nên bí hiểm khó hiểu mà chỉ có tác giả mới giải thích được:
Hoại Thai
"Chỗ ngồi. trí nhớ. đi lui
Bàn tay.tháng sáu. Xương tôi. Thịt người
Đêm về chậm máu trên mộ
Cây bông giấy cũng hoại thai vì lầm".
"Chỗ ngồi. trí nhớ. đi lui
Bàn tay.tháng sáu. Xương tôi. Thịt người
Đêm về chậm máu trên mộ
Cây bông giấy cũng hoại thai vì lầm".
Vì muốn làm mới thơ, nhà thơ đã dùng những dấu nối trong điện toán để diễn tả ý thơ nhưng sợ người đời không hiểu nên đã than: «Ở chỗ nhân gian không thể hiểu!». Có lẽ thế, cái gạch nối ấy vẫn làm giới mộ điệu thơ của ông ngỡ ngàng vì chưa quen! ‘Có mưa tôi’: là mưa thế nào? ‘tôi cũ‘: Phải chăng là tôi đã mất cái quê hương ngày xưa? Ở đây dấu gạch nối chỉ có nhà thơ mới hiểu được ý ông muốn nói!
Cuộc đời sinh tử, hợp tan là lẽ vô thường, nhưng nói về cái chết dù chưa ai trải qua, tùy theo hoàn cảnh, tâm trạng mỗi người cảm nghĩ mà diễn tả một cách riêng. Federico Garcia Lorca (1898-1936) người Tây Ban Nha là một nghệ sĩ đa tài. Ông là nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc rất nổi tiếng thế giới. Federico Garcia Lorca cả đời yêu nghệ thuật đã viết Bài thơ diễn tả cái chết nhưng nói về nghệ thuật, ông sợ khi chết chiếc đàn ghita của mình ở lại sẽ cô đơn và bị thời gian làm lệch phím trùng dây nên viết bài thơ nhắn lại bằng hữu:
Ghi Nhớ
"Khi tôi chết
chớ chôn tôi với cây đàn ghita
dưới cát
Khi tôi chết giữa hàng cam
cụm húng.
Khi tôi chết
hãy chôn tôi nếu các an hem muốn
Khi tôi chết!"
(Đan Tâm dịch)
chớ chôn tôi với cây đàn ghita
dưới cát
Khi tôi chết giữa hàng cam
cụm húng.
Khi tôi chết
hãy chôn tôi nếu các an hem muốn
Khi tôi chết!"
(Đan Tâm dịch)
Cùng nghĩ về cái chết, nhà thơ Du Tử Lê không nghĩ đến nghệ thuật mà nghĩ về con người trong đó có các con và quê hương. Đây là hai thực thể đáng qúy nhất trên đời. Phải chăng sự cao qúy nhất của nghệ thuật cũng nhằn phục vụ con người? Nhà thơ đã xót xa khi diễn tả về thận phận của mình và của những người đồng cảnh trên bước đường ly hương. Bài thơ là một nỗi niềm về thân phận con người tha hương chết nơi đất khách quê người.
Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển
"Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn."
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn."
12-77
Du Tử Lê là người rất đa tài, rất trọng tình bằng hữu. Ông có kiến thức sâu rộng về văn học nghệ thuật nên thường viết những bài nhận định về tác phẩm và tác giả của bằng hữu, bài viết mang tính giói thiệu hơn phân tích phê bình văn học nghệ thuật. Khi tuổi xế chiều ông bước qua lãnh vực hội họa để sống với thế giới tạo hình mà ông am tường khi còn trẻ và đã từng triển lãm tranh. Ông là nhà thơ có nhiều tác phẩm được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, và cũng là một nhà thơ bị những lời khen tiếng chê làm choáng váng ảnh hưởng đến tâm hồn sáng tác của ông. Nếu bảo làThơ là người thì qua con chữ hư thực mấy ai có thể hiểu hết được những gì sâu kín trong tâm hồn nhà thơ? Ở chỗ nhân gian không thể hểu phải chăng vẫn là một ẩn số về con người và tác phẩm Du Tử Lê?
"Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Đôi mắt người hồ như biển đôntg
Có mưa -tôi-cũ về ngang đó
Tự buổi thiên đàng chưa lập xong."
Có mưa -tôi-cũ về ngang đó
Tự buổi thiên đàng chưa lập xong."
Vào ngày 18.11.1989 năm xưa chúng tôi tổ chức tại nhà hàng Hoàng Gia để chào đón thi sĩ Du Tử Lê từ Hoa kỳ sang Paris ra mắt tác phẩm mới: Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu. Hôm đó quy tụ rất đông văn nghệ sĩ và giới mộ điệu thơ, tôi đã giới thiệu tác giả và diễn ngâm một số bài thơ tiêu biểu của ông.
Mỗi lần nhà thơ Du Tử Lê sang Paris bằng hữu văn nghệ sĩ lại họp mặt, tôi lại được dịp ngâm thơ của ông cho công chúng yêu thơ ông ở Paris nghe qua những thi tập: Đi Với Về Một Nghĩa Như Nhau, Chỉ Như Mặt Khác Tấm Soi Gương… Bẵng đi 10 năm ông không sang Paris; vào năm 1999, lần này thi sĩ Du Tử Lê trở lại Paris cùng nhạc sĩ Từ Công Phụng, nhạc sĩ Vũ Thành An, đây là những khuôn mặt nổi tiếng trong giới văn nghệ của Sài Gòn thuở nào. Paris chiều ngày đó có nắng vàng lóng lánh như thấp thoáng khung trời Sài Gòn trìu mến năm xưa. Nhà thơ Du Tử Lê gặp tôi tặng mấy tập thơ và nhờ đọc hộ mấy bài thơ. Ông cho biết sẽ nói về Sự Cách TânThơ Lục Bát mà ông mới sáng tạo đã lâu, và hỏi tôi về khuynh hướng sáng tác của các nhà thơ ở Paris.
Tôi cho biết; "Khách mời tham dự hôm nay rất đông là thành phần được chọn lọc, trong đó có một số người trong Hội Ba Lê Thi Xã, các thi sĩ đó họ thiên về Thơ Đường nên rất bảo thủ, anh nên giới thiệu lướt qua bài nói chuyện để tránh bị đặt những câu hỏi phải trả lời làm lấn thời gian của chương trình người khác ! Tôi sẽ đọc vài bài thơ anh."
Ông nói: "Luật thơ là do con người đặt ra, nghĩa là con người có thể thay đổi hay bổ khuyết, hầu phù hợp với thời đại mình, Vâng, tôi chỉ nói phần Ngắt Nhịp trong câu Văn, Thơ".
Từ ngàn xưa cho dến nay, thởi gian có thể làm thay đỗi mọi sự vật ở trên đời và Văn học hay Các loại hình nghệ thuật khác cũng thế, đã có nhiều sự thay đỗi từ kỹ thuật đến hình thức. Nhà thơ Du Tử Lê qua Paris lần này là muốn thuyết phục những người yêu thơ và làm thơ ở Paris về những sáng tạo đổi mới thi văn của ông. Nhưng con đường nghệ thuật thì mênh mông nên ít gặp người đồng điệu! Phải chăng nhà thơ đoán biết được ít tìm được tri kỷ nên nhà thơ có câu thơ để đời: Ở chỗ nhân gian không thể hiểu?
Có lẽ một trong những bài thơ của Du Tử Lê gây xôn xao nhất ở hải ngoại vì bị sửa lời mang ý chính trị và phát tán rộng rãi trên internet đó là bài Ai Nhớ Ngàn Năm Một Ngón Tay. Theo nhà thơ Du Tử Lê xác định gởi cho bằng hữu và phổ biến trên mạng đó là một bài thơ tình thuần túy. Bài thơ đầy cảm xúc, ngôn ngữ thơ rất hình tượng, sử dụng con chữ mờ ảo nửa hư nửa thực, ý mênh mông khiến người đọc nhiều lối suy tưởng! Tình yêu là cõi vô tận làm sao hiểu được hết những gì sâu thẳm từ đáy tâm hồn ? Có lẽ ở trên đời tình yêu là đề tài bất tận tốn nhiều giấy mực nhất, nhưng khi nói đến chuyện tình ngàn năm thì chỉ có những chuyện liên quan đến lịch sử như Bà Trưng Trắc Ông Thi Sách, Hòn Vọng Phu, Thiếu Phụ Nam Xương..vv..Còn những chuyện tình lứa đôi trai gái khác thì không có giá trị quá trăm năm. Nói đến tình yêu ngàn năm là văn chương thẩm xưng, tán tỉnh. Du Tử Lê là một thi sĩ nên ông ca ngợi tình yêu lứa đôi tuyệt đối là lẽ đương nhiên. Bài thơ Ai Nhớ Ngàn Năm Một Ngón Tay, tựa bài là một câu thơ thi sĩ dùng ẩn dụ để nhớ về một con người, một kỷ niệm mong sẽ tồn lưu một ngàn năm nhưng đó chỉ là ảo mộng!
Bài thơ tình như cơn mộng du khiến thi sĩ say đắm quên cả ngày tháng, vô tình quên luôn những kỷ niệm buồn quê hương và thân phận ly hương vào tháng tư năm nào dù đã qua mấy thế hệ chuyện tháng tư vẫn chưa phai! Nhắc đến tháng tư làm sao không gây xôn xao, nhất là khi chọn ngày tháng tư sẽ khơi gợi những đau buồn của muôn kẻ khác . Vì khi chọn tháng tư mặc nhiên đã có ý niệm chính trị vì ngày đó vẫn còn những kẻ ở trong nước vui mừng tổ chức ngày chiến thắng và những người ở hải ngoại tổ chức ngảy quốc hận!.
Thời gian bao giờ cũng vô tình và lặng lẽ trôi, ngàn năm nữa thi sĩ và bài thơ biết sẽ còn ai nhớ đến?!
Ai Nhớ Ngàn Năm Một Ngón Tay
(gửi Nam Hải)
tháng tư tôi đen rừng chưa khóc
mưa vẫn chờ tôi ở cuối khuya
có môi chưa nói lời gian dối
và mắt chưa buồn như mộ bia
mưa vẫn chờ tôi ở cuối khuya
có môi chưa nói lời gian dối
và mắt chưa buồn như mộ bia
tháng tư nao nức chiều quên tắt
chim bảo cây, cành hãy lắng nghe
bước chân ai dưới tàng phong úa
mà tiếng giầy rơi như suối reo
chim bảo cây, cành hãy lắng nghe
bước chân ai dưới tàng phong úa
mà tiếng giầy rơi như suối reo
tháng tư khao khát, đêm vô tận
tôi với người riêng một góc trời
làm sao em biết trăng không lạnh
và cánh chim nào không bỏ tôi?
tôi với người riêng một góc trời
làm sao em biết trăng không lạnh
và cánh chim nào không bỏ tôi?
tháng tư hư ảo người đâu biết
cảnh tượng hồn tôi : một khán đài
với bao chiêng, trống, bao cờ xí
tôi đón em về tự biển khơi
cảnh tượng hồn tôi : một khán đài
với bao chiêng, trống, bao cờ xí
tôi đón em về tự biển khơi
tháng tư xe ngựa về ngang phố
đôi mắt nào treo mỗi góc đường
đêm ai tóc phủ mềm nhung lụa
tôi với người chung một bến sông
đôi mắt nào treo mỗi góc đường
đêm ai tóc phủ mềm nhung lụa
tôi với người chung một bến sông
tháng tư nắng ủ hoa công chúa
riêng đóa hoàng lan trong mắt tôi
làm sao em biết khi xa bạn
tôi cũng như chiều: tôi mồ côi?
riêng đóa hoàng lan trong mắt tôi
làm sao em biết khi xa bạn
tôi cũng như chiều: tôi mồ côi?
tháng tư chăn, gối nồng son, phấn
đêm với ngày trong một tấm gương
thịt xương đã trộn, như sông núi
tôi với người, ai mang vết thương?
đêm với ngày trong một tấm gương
thịt xương đã trộn, như sông núi
tôi với người, ai mang vết thương?
tháng tư rồi sẽ không ai nhớ
rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
mắt ai rồi sẽ như bia mộ
ngựa có về qua cũng thiếu đôi!
rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
mắt ai rồi sẽ như bia mộ
ngựa có về qua cũng thiếu đôi!
tháng tư người nhắc làm chi nữa
cảnh tượng hồn tôi đã miếu thờ
trống, chiêng, cờ xí như cơn mộng
mưa đã chờ tôi. mưa... đã... mưa
cảnh tượng hồn tôi đã miếu thờ
trống, chiêng, cờ xí như cơn mộng
mưa đã chờ tôi. mưa... đã... mưa
mai kia sống với vầng trăng ấy
người có còn thương một bóng cây?
góc phố đèn treo đôi mắt bão
ai nhớ ngàn năm một ngón tay?
người có còn thương một bóng cây?
góc phố đèn treo đôi mắt bão
ai nhớ ngàn năm một ngón tay?
New Orleans 1-5-84
Vì lòng say mê sáng tạo những cái mới trong văn học nghệ thuật, nhà thơ lại thích phổ biến những điều mình khám phá ông đã trở về quê hương hy vọng giới thiệu những điều mới lạ đó với giới văn nghệ sĩ và công chúng quê nhà, nhưng khi trở ra hải ngoại ông vẫn cô đơn, trở nên thầm lặng và chỉ vui với gia đình.
Kể từ ngày nhà thơ Du Tử Lê nói chuyện văn học ở Paris vào hè năm 1999, gần 10 năm sau nhà thơ cùng phu nhân Lê Tuyền trở sang thăm Paris, ông muốn tôi tổ chức giúp buổi họp mặt văn nghệ sĩ, nhưng rất tiếc thời gian đó tôi không có mặt ở Paris nên đã không gặp được ông!
"Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi biết người mang một nỗi buồn
Biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
Cùng nỗi sầu bay đầy hư không
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi xin người sớm phục sinh tôi"
17-7-85
Tôi biết người mang một nỗi buồn
Biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
Cùng nỗi sầu bay đầy hư không
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi xin người sớm phục sinh tôi"
17-7-85
Thơ Du Tử Lê gieo vào tâm hồn người đọc một cảm giác lâng lâng đầy suy tư, ông được xem như nhà thơ Tình do cả đời đắm đuối hệ lụy vì thơ. Những câu thơ trăn trở đầy ẩn dụ làm thổn thức lòng người một thời rồi cũng bay theo thời gian về cõi mộng. Du Tử Lê viết: «Ở chỗ nhân gian không thể hiểu » phải chăng là sự hoài nghi rằng người đời không hiểu mình, hay là nhà thơ tự hỏi lòng mình về Con người, Tình yêu, Hạnh phúc và Cõi chết ? Thi sĩ Du Tử Lê đã về cõi vĩnh hằng ngày 7 tháng 10 năm 2019 tại Cali, giã từ kiếp nhân gian nhưng hồn thơ vẫn lưu lại. Người nghệ sĩ tài hoa đa cảm đó trên con đường văn học nghệ thuật đã để lại cho đời những bông hoa thơm cỏ lạ muôn sắc.
Đỗ Bình
Paris 29 tháng 10 năm 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét