Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Nhớ Ơn Anh - 30-4-2020



NHỚ ƠN ANH - 30-4-2020 - 9,000 NGÔI MỘ ĐÃ TRÙNG TU XONG.
The KingRadio

Nhớ Ơn Anh - Chương Trình trùng tu tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa do The KingRadio và bạn bè tài trợ. 5 tháng đã trôi qua, 9 ngàn ngôi mộ đã hoàn thành. 
30-4-2020, ngày dấu ấn lịch sử khác đã được ghi nhận, 9 ngàn ngôi mộ của chiến sĩ trận vong tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa đã được trùng tu.
Trân trọng
NHHN

Xin mời quý vĩ xem video



30-4 Ngày Quốc Hận!





TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN 30-4-1975
Trần Hoàng Phước Hậu

Khi nói đến chiến tranh là phải có sự chết chóc, có tràn ngập đau thương. Khi chiến tranh đã kết thúc, con người vượt qua được giai đoạn kinh hoàng của khổ đau. Bên thắng, bên thua, tất nhiên phải có.

Nhưng sau một cuộc chiến vì chủ nghĩa mà sinh ra "cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt"... "Một viên đạn xuyên qua một thân hình, bất cứ bên nào, cũng là xuyên qua trái tim của một người mẹ..." (TT Lincoln HK). Vậy có gì đáng để tự hào và ăn mừng trên xác chết của đồng loại và trên những giọt máu trong tim của những người mẹ đang nhỏ xuống quanh mình? - Hãy cho con cháu chúng ta thấy cái bình yên hướng về tương lai hơn là khơi dậy và truyền cho chúng cái hận thù của quá khứ.

Ngày nào còn có những khẩu hiệu và tiệc tùng ăn mừng 30-4, còn lải nhải những bài diễn văn cũ rích chứa đầy những lời lẽ khát máu và hận thù thì đừng bao giờ đứng lên kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc, hãy làm con người phát triển và văn minh của thời đại mới, đừng làm thân trâu bò chỉ biết nhai lại! - Bởi, chiến tranh súng đạn đã dứt gần nửa thế kỷ, bên thắng cuộc đã chiếm hết đất, nhưng lòng người thì vẫn còn cách biệt giữa hai bên, đó là thực tế! Hãy để vết thương của giai đoạn 21 năm (1954-1975) nó lành và tương lai dân tộc có cơ hội leo lên nền của đời sống xán lạn.

Súng đạn của Nga, Tàu và Mỹ đã giết dân mình bằng chính những ngón tay bóp cò của chúng ta, có đau lắm không mà giờ đây lại ăn mừng...? Hãy coi ngày 30-4 là ngày đau buồn nhất của dân tộc, dù là ở bên thắng hay thua.

Trần Hoàng Phước Hậu - Tháng Tư 2020



Kể Từ Ngày Ấy




Liên Khúc Cạn Dòng Dư Lệ




Thơ: Người Tù Chết Chiều 30 Tết




 
   NGƯỜI TÙ CHẾT CHIỀU 30 TẾT
   (Phỏng theo truyện của Nguyên Nhung)
Lê Thị Hoài Niệm

    Một ngày buồn theo lệnh...
   Người lính cũ Cộng Hòa vác gói lên vai
   Vợ con nhìn theo nén tiếng thở dài
   Đâu biết được đó là lần chia xa mãi mãi

   Rừng núi thâm u ngút ngàn Việt bắc
   Những người tù trong lạnh giá rét căm
   Tấm vải gai (bao cát) dùng lót ấm chỗ nằm
   Giờ phút cuối làm áo choàng liệm xác

   Anh ra đi ngay chiều 30 Tết
   Xác thân xưa giờ còm cõi ốm gầy
   Bởi vì đâu anh phải đến nơi đây?
   Lặng lẽ chết không người thân vuốt mắt.

   Nhớ ngày nào anh cầm quân chống "Giặc"
   Anh hiên ngang, anh kiêu dũng, oai hùng
  Giặc đến đây vì chủ thuyết cuồng ngông
   Anh hiện diện trong đoàn quân tự vệ.

   Ai dám nghĩ có ngày buồn đau thế?
   Những quân nhân, dân cán chính ngày nào
   Bị đoạ đày sống cực khổ thế sao
   Thể xác, tinh thần! nỗi đau nào phải kể?

   Cái chết của Anh đã làm người ứa lệ
   Giữa những người tù cùng cảnh ngộ đói cơm
   Cái bánh chưn xanh được "ưu đãi" cuối năm
   Nhưng anh vĩnh viễn không thể cầm chiếc bánh.

   Khi bạn tù biết thì xác thân anh đã lạnh
   Họ bàng hoàng, cố cứu sống lại anh
   Trong cổ áo quan gối đầu chiếc áo màu xanh
   Và chiếc bánh, cúng tiễn hồn người chết!

   Bao năm qua có kẻ còn người mất
   Trại tù xưa cũng nay đổi, mai dời
   Mộ phần anh cũng phó mặc đất trời
   Bên dòng suối, nghe rừng than, đá khóc.

   Vợ con anh với lòng tin Chúa - Phật
   Van vái khẩn cầu đi tìm kiếm mộ chồng- cha
   Linh hồn anh phù hộ vợ con nhà
   Đã xui khiến người bạn tù chỉ lối

   Xuân năm xưa anh là người tù nhân chết vội
   Bao nhiêu năm rồi vợ con lặn lội tìm mồ.
   Giờ tro cốt anh được hương khói phụng thờ
   Nén nhang đốt, xin hồn linh siêu thoát.

   Lê thị Hoài Niệm.



Màu Thời Gian





MÀU THỜI GIAN
Hoàng Liên Chi
1.
Đó là một ngày giữa tháng 3 năm 1975, tình hình chiến sự nóng bỏng trên cao nguyên lan về tới Tuy Hòa với tốc độ chóng mặt. Ba tôi thu xếp cho cả nhà vô Nha Trang lánh nạn. Mấy chị em tôi cứ ngây thơ cười, nói ăn uống làm như gia đình đang đi nghỉ mát. Ba vẫn còn ở lại Tuy Hòa...

2 tuần sau... Nghe tin Tuy Hòa thất thủ... Không khí yên bình của Nha Trang không còn nữa. Chúng tôi hoang mang ngơ ngác nhìn nhau...

Những bữa cơm trở nên đắng ngắt không thể nuốt trôi... Ba đang ở đâu? Đang làm gì? Chúng tôi nôn nóng đợi chờ...

Tối hôm sau khi cả nhà sắp sửa đi ngủ ba đột nhiên xuất hiện như cơn gió lốc... Ba xuống tàu đi tới cảng Cam Ranh, không theo chiến hạm Mỹ đi thẳng vô Phú Quốc mà về ngược lại Nha trang với gia đình. Trên người còn nguyên bộ quân phục, giày, nón sắt... Chúng tôi vây quanh yên lặng... Ba ngồi đó hai tay nắm chặt gục đầu buồn bã rồi chậm rãi nói... "Chúng ta đã thua trận!"

Tôi chợt thấy cổ họng mình đắng chát. Nghe có gì vỡ vụn quanh đây!

2.
Thấm thoát ba đi vô trại tập trung đã được 3 năm. Đột nhiên một buổi sáng ba bước vào nhà với bọc hành lý nhỏ trên tay. Dù không kẹo, không bánh chị em tôi cũng vui mừng tíu tít, giống như đón ba đi du lịch xa mới về. Ba ốm đi nhiều và thật là xanh xao... Thì ra ba bị bệnh, sốt cao trại cho về một tuần để chữa bệnh.

Những ngày phép trôi qua thật nhanh, ba vẫn còn sốt và mệt nhưng phải lên trại để trình diện đúng hẹn. Chúng tôi không nỡ để ba đi nhưng đó là lệnh, làm gì có đặc ân cho một người tù? Chiếc xe Camion chở hàng cho trại ghé lại đón ba đi. Trời nắng gay gắt, ba run rẩy liêu xiêu tay ôm bọc quần áo trèo lên phía sau xe chở hàng. Không có ghế, ba đứng vịn tay vào thành xe, còm cõi, yếu ớt. Chiếc xe lao đi vội vã để lại phía sau một đám bụi mù che khuất bóng dáng khó nhọc của ba. Tôi quay đi lau vội giọt nước mắt!

3.
Khoảng 2 giờ sáng tôi giật mình thức giấc vì tiếng lộp cộp trên lầu cứ vang lên đều đặn. Tôi cảm thấy lạ nhưng lười biếng không muốn dậy và cuộn mình trong chăn để ngủ tiếp. Đến khi nghe tiếng mở cửa thì tôi đã biết chuyện gì rồi. Tôi chạy nhanh lên lầu thì thấy ba tôi quần áo chỉnh tề, đội mũ tay cầm cây gậy đang mở cửa bước ra ngoài.

Tôi hoảng hốt "Nửa đêm rồi mà ba định đi đâu?"
Ba ngơ ngác "Ba muốn đi ra ga về Tuy Hòa"

Tôi vừa kéo ba vô nhà vừa thở dài "Ba ơi trời chưa sáng mà, vô ngủ đi rồi mai con chở đi"

Đó là ba tôi của những ngày cuối đời bây giờ. Nửa mê nửa tỉnh, khái niệm về không gian, thời gian chỉ là vô nghĩa. Từ một vị chỉ huy oai nghiêm của quân lực VNCH, đến những năm tháng tù đầy gian khổ. Và bây giờ là những ngày cuối đời vô vị, lay lắt như ngọn đèn sắp cạn dầu. Tuổi già khắc nghiệt không chừa một ai, ba giờ như cái bóng lầm lũi trên chuyến tàu thời gian... Và cứ mãi muốn tìm về quá khứ.

Sáng nay ba lại quần áo tươm tất rồi dõng dạc nói "Chở ba đi xuống trung tâm, hôm nay có cuộc họp với ông tỉnh trưởng đây!"

Chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau... chợt thấy cay trong mắt...

HOÀNG LIÊN CHI
(Thương nhớ về Ba trong ngày 30 tháng 4 định mệnh và nghiệt ngã.)



Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020

Nhớ Cô Phương

GIỚI THIỆU
Được tin buồn cô Hoàng Thị Diệm Phương (nữ sĩ Hoàng Hương Trang) cựu giáo sư trường trung học Nguyễn Huệ Tuy Hòa, Phú Yên qua đời. Đồng môn Phan Ngọc Giang tưởng nhớ đến công ơn dạy dỗ của người thầy kính mến. Anh ghi lại "những cảm nghĩ còn canh cánh bên lòng".
Xin chia sẻ đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và Thân Hữu.
Trân trọng
NHHN



NHỚ CÔ PHƯƠNG
Phan Ngọc Giang

Lâu rồi không có dịp trải lòng cùng các huynh đệ tỷ muội, chiều nay, mở máy tính thấy một tin ngắn, bàng hoàng viết vội mấy hàng cùng chư vị.

Cô Phương, nữ sĩ Hoàng Hương Trang đã ra đi.

Một người thầy, một cô giáo đã ra đi. Đã có nhiều đồng môn và thầy cô khác đã có lời ca ngợi và tôn vinh, nên tôi không cần phải viết gì thêm nữa, nhưng với cô Phương, mình có vài  suy nghĩ còn canh cánh bên lòng nên viết ra đây vài cảm nghĩ gởi trong phạm vi hẹp.

Thời tụi mình học đệ ngũ, đệ tứ cô Phương về dạy trường Nguyễn Huệ thì quả thật là một đóa hồng lạc giữa rừng gươm, giữa những ông giáo khắt khe: thầy Toản dáng người cao dong dỏng, với bàn tay sắt, lúc nào cũng lăm le giáng vào đầu những bạn nào sơ ý,  lôi thôi trong y phục, giày giép hình như lúc nào mắng học sinh cũng chỉ một câu ngắn “thằng khỉ kia lại đây“ và tiếp theo là  một tát tai như trời giáng, Thầy Gạch mặt thiết diện phán quan, ít có học sinh nào muốn gần gũi, dù trong thâm tâm thầy chỉ muốn giữ một quan niệm nghiêm khắc về giáo dục,”Giáo bất nghiêm sư chi nọa, phải dữ dằn nghiêm khắc với chúng mày chúng mày mới nên người”. 

Cũng còn một vị thầy khả kính tài năng dạy toán - không cần nhắc tên mọi người đều biết - mà cách thức ứng xử thật là “ văn”- (đối chọi với võ) để xử phạt các học sinh lôi thôi: bạn nào nhảy cửa sổ trốn học cho 1 điểm  (điểm trên 20), mất giày, giép trong lớp học được lãnh 2 hoặc 3 điểm, đi học mà quên tập vở cũng 2, 3 điểm gì đó v.v..., thầy ứng xử thật ngắn gọn mà hiệu quả, không phí nhiều lời, chỉ  cần đánh đồng học lực với tư cách là đủ, ngắn gọn chẳng phải là tiêu chuẩn của văn chương lẫn toán học hay sao?. Vị thầy hồi ấy có nghĩ ra lý thuyết  ”hiện sinh tử”, không biết lâu nay thầy có đào sâu thêm về thuyết này, riêng  thuyết này đã giúp ích tôi rất nhiều khi học về kỹ thuật phân kênh thời gian trong truyền tin TDM (time division multiplex).

Có rất ít thầy giáo giám cởi mở hào hiệp như Thầy Bình dạy Lý Hóa hay thầy Đằng đẹp trai, mãi về sau mới có vài vị tốt nghiệp từ Saigon hoặc từ Huế về dạy, lúc ấy bọn mình cũng vừa lớn lên, gặp những ông giáo trẻ đầy lương tâm và cởi mở, thầy trò mới thân mật, gần gũi hơn, những thầy ấy chắc đã để lại trong trong chúng ta những hình ảnh tốt đẹp khó phai, mà kết quả học tập cũng khả quan: thầy Trương Tấn Lực, Từ Hữu Đán, Nguyễn Xuân Thu v.v.

Nhắc lại những kỷ niệm về những lão sư khó tính này, tôi không hề oán trách mà chỉ muốn nêu ra như những kỷ niệm gợi nhớ, vả lại một cái tát tai thì có nghĩa gì so với những điều huấn nhục trong các quân trường mà đa số huynh đệ ở đây cũng đã trải qua, vả lại một chút ít roi vọt để dẫn đắt đệ tử đi về chánh đạo, chớ có chạy theo làm đệ tử của ma quỷ thì nên lắm chứ, học trò thời nào củng chỉ đứng sau ma với quỷ thôi mà, vả lại môt tát tai để khi rời ngôi trường có thêm kỷ niệm, có thêm dĩ vãng ấy mà.

Giữa sân trường Nguyễn Huệ khô cằn buổi ấy thì hình ảnh cô Phương bước vào trường quả đã làm thay đổi không khí, cảnh quang của sân trường tưng bừng, tươi tắn hơn, những giờ học vẽ với cô Phương, vì là môn nhiệm ý, bọn mình học hành nhẹ nhàng như những giờ giải trí sau những giờ học toán nặng đu hay những giờ lý hóa mệt óc. Tuy thời gian học ngắn ngủi nhưng cô cũng truyền đạt cho chúng mình một ít kiến thức và kỹ thuật cơ bản về hội họa, dạy một môn nghệ thuật mà  phải giữ gìn giữa tính hàn lâm, mô phạm và phóng khoáng của nghệ sĩ thì quả là khó khăn, cô chưa giám đưa ra  phổ biến những trào lưu hội họa mới khó hiểu mà chỉ gò trong những kỹ thuật viễn cận, cách thức tô bóng và ánh sáng theo chương trình.

Cô nhắc lại những nét tỉ mỉ cần có trong hội hoa như những kỹ thuật điêu khắc trên một tác phẩm chỉ nhỏ bằng hạt thóc của “xính xáng” Đới Ngoạn Quân, mà cô được  truyền thụ hay những nét yêu kiều và đầy huyền thoại của bức tranh Lajoconde của Léonard.de Vinci, điều này đã gây ấn tượng sâu sắc lâu dài trong tôi, một hôm đi dạo trên đường phố Saigon nhìn vào phòng vẽ của một họa sĩ thấy có bức Lajoconde thầm nhớ lại những buổi học vẽ với cô Phương hồi đệ tứ, về nhà mở mạng internet xem lại bức Lajoconde thật giả trên khắp thế giới lòng thấy nao nao khó diễn tả nhìn thiên hạ sao chép nhiều quá, các họa sĩ lại phóng tác lại bức này theo mọi khuynh hướng khác nhau từ cổ điển, hiện thực đến lập thể và trào lộng thầm nghĩ sao mình không vẽ một bức. Sau hai tháng miệt mài tôi cố chép lại bức Lajoconde nhưng chưa bao giờ thực hiện được nụ cười bí hiểm của nàng Mona Lisa (người phàm như chúng mình khó bắt chước được thiên tài là chỗ đó nhưng rồi sau khi vẽ xong cũng có cảm hứng viết ra được 4 câu thơ con cóc: ánh mắt Tây phương chẳng gợn sầu, môi hàm tiếu gợi nét Tô châu, dư ba chẳng đọng riêng trời Ý, phơ phất đan thanh rợp địa cầu).


Tranh vẽ của đồng môn Phan Ngọc Giang

Cô Phương đa tài từ hội họa đến văn chương thi, văn và âm nhạc, nhớ hồi cuối năm học 1963-1964 trường NH có tổ chức môt đêm văn nghệ để gây quỹ là từ thiện tại rạp Diên Hồng đêm ấy có ban nhạc là những chàng tay trống tay đờn, một số cây nhà lá vườn học sinh Nguyễn Huệ còn có vài anh học sinh Cường Để Qui Nhơn – là học trò của thầy Nguyễn Đức Giang - từ Bình Định vào giúp sức, trong đêm văn nghệ, sau tiếng sáo dặt dìu của thầy Lê Chí Tế là giọng ngâm thơ của cô Phương, dường như ngâm theo một tuồng tích gì đó trong”sương gió bến Tầm Dương”:

‘Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,

Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu

Người xuống ngựa khách dung chèo

Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty …

{Bạch cư Dị-tỳ bà hành, Phan Huy Vịnh dịch)

…………………………………………………

“Tư mã chàng ơi…”

Nếu Bạch lạc Thiên - Giang châu tư mã đêm năm xưa đã rơi lệ ướt đẫm áo xanh (Giang Châu tư mã thanh sam thấp) bên nàng thương phụ nghệ sĩ già đã tạo nguồn cảm hứng cho bao nhiêu khách văn chương Việt với Xuân Diệu  thổn thức từ  tiếng Nguyệt Cầm “Long lanh đáy sỏi vang vang hận/ Trăng nhớ Tầm dương, nhạc nhớ người “mà ray rưt mãi đến “sương bạc làm thinh khuya nín thở, nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”,  Vũ Hoàng Chương phải than thở “niềm nhân thế  chua cay người lịch duyệt,tình giang hồ chua xót lệ Giang châu”, đến Cung Tiến trong Nguyệt Cầm Trăng Tầm dương lung linh bóng sáng, từng thoáng lệ ngân, mà lòng phân vân cuồng điên nhớ.,....,. ai nhớ nương tử trong đêm nao trăng thanh trong lời hát, chết theo nước xanh”, rồi Dương Thiệu Tước cũng “cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương”, Bùi Giáng lang thang giữa đôi bờ hư thực đi giữa mùa xuân phía trước miên trường phía sau cũng có lúc buâng khâng hỏi rằng đất trích chiêm bao, sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau , và còn nhiều nữa, thế thì, đêm văn nghệ ở rạp Diên Hồng ấy hẳn cũng có nhiều giọt lệ thầm rơi theo giọng ngâm thổn thức của cô Phương. Buổi văn nghệ có trình diễn vở kịch “Nhất Tiếu” mà các diễn viên là các học sinh trong 5 lớp đệ tứ năm ấy, tôi còn nhớ có Lương văn Phu, Phạm Thăng Bình, Lê Mảy, chị Châu - mà tôi không nhớ rõ họ tên trong vai Bao Tự, Nguyễn văn Năm, bây giờ là Tiến sĩ luật khoa ở Mỹ mà lâu nay tôi không có tin tức. Kể ra ở một tỉnh nhỏ có một đêm văn nghệ như vậy ở thời điểm ấy quả là một thành công lớn.

Hồi năm 2005 một nhóm nhỏ thầy trò Nguyễn Huệ ở Saìgon có một cuộc gặp gỡ tại Thảo Cầm Viên, cô Phương có hát một bài do cô sáng tác và sau đó cô ngâm bài thơ Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ (chắc cô thầm nghĩ thầy trò NH lúc này đã cùng một lứa phương trời lận đận như những hùm thiêng khi đã sa cơ rồi).

Những năm cuối thập niên 70 cô Phương có viết vài truyện ngắn, có truyện đăng trong tạp chí Văn, còn nhớ một truyện là “Vườn Huệ Trắng”, thời gian ấy khi viết truyện chắc cô Phương cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào văn nghệ hiện sinh, trong truyện có một nhân vật thất tình, nhân vật ấy sáng tác những bức tranh theo đủ khuynh hướng vừa hiện thực vừa trừu tượng để gởi gắm điều gì đó với tình nhân rồi tìm đến cái chết để chấm dứt cái phi lý của cuộc đời, bằng cách phủ đầy hoa huệ trong phòng ngủ, ôi cái chết đầy thơm tho và đầy nghệ thuật vị nghệ thuật hiện sinh. Đây là con đường ngắn ngủi ngoạn mục để băng qua từ kiếp phù sinh qua thành Uổng tử đó sao?. Sau này tôi có đọc một bài thơ cũng của cô Phương với tựa đề Người Quét Phố, bài thơ này mang nhiều tính hiện thực và như những giọt lệ khóc thầm cho kiếp phù sinh của những kẻ trầm luân, tôi không nhớ hết bài thơ nhưng hiểu được nội dung nỗi lòng của cô Phương lúc ấy thật bồ tát mà những giọt  lệ thầm khác gì những giọt nước cành dương  làm gì không thấm mát lòng người. Vài tác phẩm nêu ra  đây chưa đủ, và không hề đủ để tiêu biểu cho toàn bộ sự nghiệp văn chương của cô Phương khá đồ sộ, hơn nữa đây chỉ là những tác phẩm tôi có dịp đọc qua muốn nêu ra như để gợi lại vài kỷ niệm và cảm nghĩ.

Giờ này Cô Phương đã thanh thản ra đi chắc phải thanh thản mới dựng sẵn một tấm bia ở Huế. Thôi hãy để một thiền sư thi sĩ tiễn cô bằng mấy câu thơ họa là lời thơ có thay thế mấy câu kinh: 

Cõi người có bao nhiêu

Mà tình người vô lượng

Còn chi trong giả tưởng

Hay một vết chim bay (Phạm Thiên Thư)

Bọn mình hầu hết đã trải qua thời xuân xanh với khoa học toán để chuẩn bị cho nghề nghiệp, đến thời trung niên đầy biến động cũng phải bôn ba với cuộc sống, ít có thì giờ với văn chương, cô Phương đa tài, tài từ thi ca văn chương, âm nhạc, hội họa  giờ này đã ra đi, tôi chỉ học được ở cô một chút ít hội hoa, nguệch ngoạc vài nét chẳng theo trường phái nào cả, nhớ Cô Phương, xin trình các bạn vài bức xem chơi. Trong bức Núi Nhạn Sông Đà tôi theo một bức ảnh demo trong trang web Nguyễn Huệ HN, tôi tưởng tượng ra non nước quê hương mình ở vào thời kỳ chưa có những công trình nhân tạo, còn những chiếc thuyền buồm ngược dòng, theo mùa gió nồm v.v… 


Tranh vẽ của đồng môn Phan Ngọc Giang

Ở giữa tôi có thêm hình ảnh của của một ốc đảo, ốc đảo có thêm vào cũng không mất đi tính hiện thực bởi chuyện biến đổi dâu bể của thời gian, của giòng đời có như không dẫu hai ngọn núi gần có vẻ vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt (thanh sơn y cựu tại, kỷ độ tịch dương hồng). Trên không cũng có vài chú mòng biển dương cánh bay về núi nhạn. Thời đi học tôi còn biết nhiều anh em huynh đệ ở đây nhiều tài năng hơn tôi về mọi mặt, cũng nhờ ngh thuật giúp ta thư giãn ít nhiều và cũng vơi đi phần nào của nhân sinh hệ lụy, không phải Victor Hugo đã từng dạy “ton art purifie ton âme”. Cũng mong các bạn hiền mình có thì giờ xin chỉ giáo.


Tôi cũng gởi theo đây một tấm ảnh của thầy trò NH tại Saigon
hồi 2005.

- Hàng ngồi: từ bên phải sang: Gs Tùng (dạy lý hóa), Gs Trần Xuân Phúc, Gs Nguyễn Đình Hối , Gs Thơ (giám thị, dạy Anh văn), Gs Nguyễn văn Chút (mang kính râm), cô Phương (hội hoạ), kế đến 3 giáo sư mới dạy sau này tôi không biết tên ,ngồi sát góc trái là Gs Nguyễn Đình Quỹ.

- Hàng đứng, từ trái sang: Đào Tấn Hoan, Huỳnh Thiên Lộc (học sau lứa bọn mình 4 năm), Phan Ngọc Giang, Lương Công Tổng (sau 2 năm) v,v…, mang kính đen là Đinh Hồng Hạnh (sau 2 năm), gần giữa tấm ảnh là hai chị em Thanh Hà, Vân Phượng, cô mặc áo đỏ tôi khg quen, kế đến là cặp vợ chồng Nguyễn Hữu Lệ-Ngọc Anh,  Trần Đại (tiệm may Trần Quảng), kế đến một chị mà tôi khg biết tên, tiếp theo là Nguyễn thị Bích Ngọc, Lê Văn Cử (trước tụi mình 2 năm, anh  của L.V. Trường), cuối hàng bên phải là Nguyễn Đình Mính (sau tụi mình 3 năm, em của NG. Đình Công, Nguyễn Đình Quang), áo xanh đứng kế Mính là Đặng Như Đồng (sau  4 năm, là em của Đặng Như Thường, cái tên ghép với một giai thoại nổi tiếng chắc ai cũng biết còn  Đặng Như Ích, em của Thường đã mất cách đây 3 năm).

- Hàng sau: từ trái qua, đứng sau ngươi mang kính đen Đinh Hồng Hạnh là GS Định, dạy toán, chơi guitare classique rất hay, giữa tấm ảnh, người hơi nghiêng đầu là GS Hiệp (dạy sử đia), sau lưng người mặc áo đỏ là “sư hữu Lê Ngọc Hối”, tiếp theo là hai anh học trước 2 lớp (anh đứng bên phải là Phan đình Trọng).

- Hai người đứng sau cùng là Gs Dương Đình Đống và Trần Việt .
còn một người nữa: Gs Lâm Thành Bích (dạy toán năm đệ tứ) là người cầm máy ảnh nên không có trong ảnh).  

Xin chúc mọi người bình an, vạn phúc.


Phan Ngọc Giang


Tranh vẽ của đồng môn Phan Ngọc Giang

Phân Ưu Cụ Bà Trương Thị Bữa




Nỗi Lòng Người Đi




Nhớ Tháng Tư




Thằng Tị Nạn




Người Tình Lưu Vong




Căm Hận Giặc Hồ




Lệnh Tản Hàng & Ngọn Lửa Vàng




Một Ngày Phải Đến




Sầu Viễn Xứ




Biển Đảo Mất Rồi




Viên Đạn Cuối Cùng



VIÊN ĐẠN CUỐI CÙNG
Trần Như Xuyên

Tháng 8-1974, một trận đánh lớn xẩy ra tại Thường Đức giữa hai Lữ đoàn Nhẩy Dù của Quân lực VNCH và 3 Sư Đoàn quân Bắc Việt, trận chiến rất khốc liệt, sau 3 tháng quần thảo, số tổn thất của hai bên rất to lớn. Trận chiến đã trôi qua 37 năm, nhưng những người lính Nhẩy Dù năm xưa vẫn không quên âm vang của trận đánh và những đồng đội đã nằm xuống. Xin mời đọc câu chuyện của một người Đại Đội Trưởng Nhảy Dù tham dự trong trận đánh này tại Thường Đức.

 oOo

Tâm Anh bước những bước nhẹ trên hè đường Tự Do, cơn gió lạnh cuối năm khiến nàng khoanh hai tay lại suýt xoa. Những chiếc lá me khô lăn tròn như điệu nhạc luân vũ dưới chân nàng. Sài gòn năm nay được hưởng một cái lạnh khác thường, gần Noel rồi còn gì. Ngang qua Brodard, nhiều cặp mắt trong đó nhìn nàng, còn anh trong đó nữa đâu? Vậy là anh vĩnh viễn xa em rồi... Phải chi anh đừng mê đời lính, phải chi anh đừng mê súng đạn thì giờ này em đâu có cô đơn như thế này. Tâm Anh nhớ lại, cũng là Broadard này một ngày nào đó, ngày hai người còn quấn quýt bên nhau, khi đang ngồi uống nước, ngắm thiên hạ qua lại, bất chợt Chương nắm tay nàng:

- Em, anh đã suy nghĩ kỹ rồi, anh sẽ nhập ngũ, vào Võ Bị Đà Lạt.

Cái ống hút rời khỏi đôi môi xinh xắn, nàng không ngạc nhiên nhưng có bàng hoàng. Tâm Anh chờ đợi ngày này sẽ đến và bây giờ nó đến, vậy mà vẫn không tránh được. Nàng hiểu tính Chương, thời gian gần đây, Chương luôn than phiền về một cái gì đó, không rõ ràng, có lúc Chương bảo sao chàng thấy thành phố này ngột ngạt quá, chỉ muốn xa khỏi đây, có lúc Chương đứng sững nhìn một người lính phía bên kia đường, lẩm bẩm: ”Vậy mà Trung nó chết cũng được nửa năm rồi” - Trung là một trong ba người bạn thân của chàng, cùng đang học Đại học, rồi cả ba bỏ đi lính. Khi mãn khóa, Trung chọn binh chủng Nhảy dù, hai người kia chọn bộ binh và đổi đi xa, chỉ có Trung thỉnh thoảng về phép, rủ Chương và nàng đi chơi như ngày xưa, ngày mấy người còn vui chơi với nhau chung một nhóm. Trung đen hơn nhưng rắn rỏi, mỗi lần về, Trung say sưa kể về một trận đánh nào đó mà anh tham dự, nàng bắt gặp ánh mắt Chương rực sáng khi nghe Trung nói chuyện. Thế rồi Trung không còn dịp về nữa để kể chuyện chiến trường cho Chương nghe, anh đã hy sinh trong một trận đánh ở đâu đó, nàng không nghĩ Chương lại nối gót theo mấy người kia sớm tới như thế.

Nàng bất chợt hỏi Chương:



- Anh bỏ đi như vậy, còn tình yêu chúng mình, còn em thì sao?
- Thì tình yêu mình cũng vẫn còn đấy chứ em, biết đâu sự xa cách này chẳng là một thử thách cho đôi ta, nếu mình vẫn giữ vững được, nếu mình vẫn chỉ nghĩ đến nhau thì cuộc hôn nhân mới thực bền vững.

Cuối năm 1972, chiến trường đã qua đi những trận đánh lớn, tháng giêng 1973, Hiệp định Paris được ký kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC. Về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đã xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đã hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam vì Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH. Trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu cả về vũ khí lẫn viện trợ kinh tế thì CS Bắc Việt lại được sự yểm trợ to tát của toàn khối CS.

Về phía Bắc Việt, ký kết Hiệp định Paris là cơ hội để họ xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân thì cũng là lúc CS đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy vì sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris qui định ai ở đâu thì yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng. Kinh nghiệm cái Tết Mậu thân còn đó. Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm dò, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.

Thường Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ Quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà Nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.

Quân trú phòng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân, tháng 6, 1974, tin tức tình báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức. Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này, gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân thì toàn là gia đình của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.

VC tấn công Thường Đức với SĐ 304 (SĐ Điện Biên), SĐ 324 và nhiều Trung Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng. Quân trú phòng chống cự mãnh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại to lớn cho quân tấn công; phía trú phòng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu. Sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, Quận bị thất thủ.

Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1, 7 và 9 được không vận từ SG bằng C130 xuống Đại Lộc.

Trung Úy Nguyễn thanh Chương, khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.

Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đã chiếm, thiết lập công sự phòng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4. VC đã chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức vì chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.

Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đã sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đã có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua, bứng những chốt Cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đã bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.

TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù. Những mục tiêu tác xạ chúng đã tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân. Đại Đội Chương mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.

Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến phòng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau. Rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là vì không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công. Pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong. Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy. ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh. Lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại. ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đã đổ bao xương máu mới chiếm được. Mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm. Ở tuyến phòng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu. TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập. Thành bị nguyên một băng AK nát hết người. Khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062. Lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mặt mũi và rồi không biết gì nữa.

Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh. Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.

Cuối cùng, người ta đã cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết mình bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp. Chương cũng biết mình mất mất một chân. Các Bác Sĩ khi thấy Chương đã đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được hình hài như xưa.

TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn Bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep. Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhảy Dù. Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy. Khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí. Chương không cho Đầy báo gì Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn dò Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.

Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức gì của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhảy Dù ở đâu đó. Một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:

- Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú?

Đầy không nói gì cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.

Nhìn cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: gì thế này, có chuyện gì xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói gì không may nghe chú Đầy, sao mặt chú lại buồn thế kia, đừng, chắc không có gì đâu, có gì nói đi, nói đi chú Đầy.

Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:

- Xin cô bình tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đã hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đã chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá.

Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi mình trên ghế, không còn nghe những gì Đầy đang nói tiếp. Thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đã hy sinh. Câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đã được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cõi đời tan nát?

Hạ sĩ Đầy đã hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đã bảo anh làm trước đây. Công việc chút nữa đã không hoàn thành khi Đầy nhìn thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh. Nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đã kềm chế được mình vì anh hiểu những gì ông thầy mình muốn cho quãng đời còn lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh. Đầy cũng thương ông Trung Úy của mình không kém gì Tâm Anh, có điều hai tình thương khác nhau; với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả tình đồng đội, những ngày ở Bệnh viện, đã bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nhìn Chương trong hình hài không còn nguyên vẹn.

Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không còn tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để tìm quên. Nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài Gòn, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho phòng trà của mình, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một phòng trà mà lúc còn sống Chương rất thích. Ở đây, nàng như thấy Chương của một ngày mà Hey Jude, don’t let me down, ngày hai người quấn quýt bên nhau với tiếng hát của Billy Shane, của Strawberry Four. Nàng cũng thuộc lòng câu thơ Chương làm cho nàng trong một lần lên Đà Lạt thăm Chương về:

Anh cứ sợ rồi mình sẽ quên nhau như con đường nơi đó như ngày nao trên thềm phố chợ sáng Chủ Nhật em chờ anh vẫn trên cao là những nhánh thông xanh và dưới thấp là mặt hồ yên lặng có phải mùa Thu làm mắt em xa vắng rồi mình sẽ quên nhau

Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu. Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em? Tâm Anh vẫn buốt lòng mỗi khi nghĩ tới Chương.

oOo

Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi còn phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá.

Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.

Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu...” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?...”

Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy để em đỡ ra xe”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.

oOo

Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười - như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu.

Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh... Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà.


29 tháng Tư, Đầy chạy vội lên căn gác:

- Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.

Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu colt hấp tấp hỏi Đầy:

- Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không?
- Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
- Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.

Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo, có người sách cả đồ đạc như chạy loạn, chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh. Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.

- Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
- Không đích thân, đích thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà đích thân.

Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy...

Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy:

- Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.

Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:

- Nhẩy Dù cố gắng nghe Đầy.
- Dạ, Nhẩy Dù cố gắng ông thầy.

Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn.

Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thường Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội Trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương.


Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo. Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M72, mấy ngày nay, Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, chưa được tiếp tế. Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này, một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy...” rồi ra đi. Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên VC đi đầu. Tiếng tăng mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thường Đức, giờ mình chết ở đây, cũng không sao, Chương rút khẩu colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy ạ!”. Một tiếng vang lên, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm.

Trưa 30 tháng Tư, sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ nắm chặt lấy nhau.

Trần Như Xuyên

Hãy Trả Lại Tôi Tên Gọi Saigon

GIỚI THIỆU
Sài Gòn đã đổi tên sau ngày 30-4-1975 nhưng vẫn còn tồn tại và ngự trị vĩnh viễn trong con tim của người Miền Nam Việt Nam (VNCH).
Xin mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm HÃY TRẢ LẠI TÔI TÊN GỌI SAIGON.
Sáng tác: Việt Dzũng
Trình bày: Việt Dzũng
Thực hiện: Ngo Nguyen
Trân trọng
NHHN

Xin mời quý vị thưởng thức



Cảm Tác Bài 'Bên Bến Nước'