Thứ Ba, 27 tháng 7, 2021

Thơ Lý Bạch - Bài 23, 24, 25

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 23, 24, 25
Thầy Dương Anh Sơn 
 

Bài 23
 
把酒問月                                             BẢ TỬU VẤN NGUYỆT

青天有月來幾時               1                  Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì ?
我今停杯一問之。                                Ngã kim đình bôi nhất vấn chi.

人攀明月不可得,                                Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
月行卻與人相隨。            4                  Nguyệt hành khước dữ nhân tương tùy.
皎如飛鏡臨丹闕,                                Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, 

綠煙滅盡清暉發。                                Lục yên diệt tận thanh huy phát.
但見宵從海上來,                                Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
寧知曉向雲間沒。            8                  Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
白兔搗藥秋復春,                                Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
嫦娥孤棲與誰鄰。                                Hằng nga cô thê dữ thùy lân ?
今人不見古時月,                                 Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt,
今月曾經照古人。           12                  Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
古人今人若流水,                                 Cổ nhân kim nhân nhược lưu thủy,
共看明月皆如此。                                 Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
唯願當歌對酒時,                                 Duy nguyện đang ca đối tửu thì,
月光常照金樽裡。           16                  Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
李白                                                         Lý Bạch

Dịch nghĩa :

Cầm chén rượu hỏi trăng.

Bầu trời xanh có vầng trăng đến nơi đây đã được bao lâu rồi ? Nay ta ngừng chén hỏi trăng một lời. Người không thể nào trèo lên được vầng trăng sáng ; vầng trăng lại cùng người theo nhau đi. Trăng sáng giống như tấm gương bay vút đến cung trời màu đỏ. Làn khói xanh lục tan đi để ánh sáng màu xanh nổi lên. Ban đêm, chỉ thấy (trăng) nhô lên trên biển, biết sao được lúc trời mới sáng (trăng) đã khuất lẫn vào tầng mây.Con thỏ trắng vẫn giã thuốc từ mùa thu cho đến mùa xuân ; nàng Hằng Nga vẫn giường đơn lẻ bóng sẽ cùng ai gần gũi đây?

Người đời nay không thấy được vầng trăng thuở xưa.Nhưng vầng trăng ngày nay từng chiếu soi người thuở xưa. Người thuở xưa và người ngày nay đều theo dòng nước cuốn trôi đi và cũng cùng ngắm vầng trăng sáng đều như nhau. Chỉ mong sao khi nâng chén uống rượu, ánh sáng của vầng trăng vẫn thường chiếu soi vào chiếc chén vàng.

Tạm chuyển lục bát:

CẦM CHÉN RƯỢU HỎI TRĂNG.

Trời xanh trăng đến thuở nào?!
Nay ta ngừng chén hỏi trao một lời.
Người không thể níu trăng ngời,
Đi theo nhau mãi người cùng với trăng.
Cửa trời bay đến gương Hằng,
Tan làn khói biếc, ánh trăng trong vời!
Trăng lên, đêm đến biển khơi,                                                                                            Nào hay trời sáng khuất nơi mây tầng.
Thuốc thang thỏ giã thu xuân,
Giường đơn bóng lẻ ai gần Hằng Nga?!
Người nay, chẳng thấy trăng xưa,
Trăng nay, từng chiếu người xa xưa rồi!
Người nay, người trước : nước trôi,
Cùng nhìn trăng ấy sáng ngời như nhau!
Mong khi ca hát rượu bầu,                                                                                               Chén vàng thường vẫn trăng vào chiếu soi.


Chú thích:
- bả 把: cầm nắm, bó buộc, ước chừng, thừa, hơn...
- lai kỷ thì 來幾時: đến từ lúc nào,đến từ thời nào...
- phan 攀: níu kéo,trèo lên,leo lên,nhờ cậy...
- khước 卻: lại,lần nữa, từ chối,bỏ đi...
 - tương tùy 相隨: theo nhau, cùng đi theo, cùng tuân theo.
- kiểu 皎: ánh sáng trắng của vầng trăng, trong sạch, trăng sáng.
- đan khuyết 丹闕: màu đỏ trước cung vua, lầu gác màu đỏ ở cửa vào cung khuyết.
- tiêu 宵: đêm tối, nhỏ bé, giống như, trông giống...
- ninh tri 寧知: hay đâu,sao biết, há biết...
- bạch thố 白兔: truyền thuyết Trung Hoa có nhiều chuyện kể về con thỏ trắng làm bạn với Hằng Nga trên Cung Quảng với vai trò chuyên giã thuốc được hái từ mùa thu cho đến sang xuân....
- Hằng Nga 嫦娥: theo truyền thuyết Trung Hoa, Hằng Nga hay còn gọi là Thường Nga mà dân gian vẫn quen gọi là chị Hằng dùng để chỉ mặt trăng. Hằng Nga có chồng tên Hậu Nghệ là một viên tướng có tài bắn cung ở thiên đình được Ngọc Hoàng sai trừng trị các đứa con đang làm cho trái đất khô hạn.Hậu Nghệ bắn hạ chín mặt trời con Ngọc Hoàng chỉ để lại một mặt trời duy nhất khiến Ngọc Hoàng giận dữ cho đày hai vợ chồng xuống hạ giới. Hậu Nghệ muốn cùng vợ trở thành bất tử như trước nên đi tìm gặp Tây Vương Mẫu xin được thuốc trường sinh và được Vương Mẫu dặn mỗi người chỉ cần nửa viên uống vào là bất tử. Nghệ đem thuốc về cất vào hộp và dặn vợ không được đụng đến.Hằng Nga đợi khi chồng bắt đầu đi vắng bèn tò mò mở ra xem.Hậu Nghệ bất ngờ quay lại nên Hằng Nga nuốt trọn viên thuốc để giấu chồng.Thuốc mạnh nên Hằng Nga bay lên mãi cho đến mặt trăng và sống bất tử trong Cung Hằng hay Cung Quảng.
- cô thê 孤棲: gường đơn chiếc ,chỉ người phụ nữ sống một mình vắng chồng hoặc chưa chồng. 


Bài 24:

自遣                                                                           TỰ KHIỂN

對酒不覺瞑,                                                           Đối tửu bất giác mính,

落花盈我衣。                                                           Lạc hoa doanh ngã y.
醉起步溪月,                                                           Túy khởi bộ khê nguyệt,
鳥還人亦稀,                                                              Điểu hoàn nhân diệc hi.
李白                                                                           Lý Bạch

Dịch nghĩa :

Khuây khỏa một mình.

Cùng nhau với rượu bỗng trời đã tối. Những cánh hoa rơi rải đầy áo của ta. Say rượu rồi đứng dậy,lần bước theo khe trăng. Đàn chim đã quay về (tổ), người đi thưa thớt.

Tạm chuyển lục bát:


KHUÂY KHỎA MỘT MÌNH.

Hợp cùng rượu, bỗng đêm rồi!
Áo ta bao cánh hoa rơi trải đầy.
Khe trăng dậy bước, cơn say!
Người đi thưa thớt, chim quay trở về.

Chú thích:
- khiển 遣: làm cho khuây, làm cho quên,sai khiến, phân phát...

- đối tửu 對酒: hướng về (bầu) rượu, hợp cùng chén rượu, trước mặt chén rượu...

- doanh 盈: tràn đầy, sung mãn, đầy đủ kiêu ngạo, tự mãn...

- mính 瞑: mính là âm của minh (tăm tối, u ám...): trời tối, đêm tối, ban đêm.

- túy khởi 醉起: say rượu rồi đứng dậy.
- khê nguyệt 溪月: khe nước chảy có ánh trăng sáng chiếu soi.

 

Bài 25
                                                                                                 
 
塞下曲(其一)                                    TÁI HẠ KHÚC( Kỳ nhất ).
 
 
五月天山雪,                 1                Ngũ nguyệt Thiên San tuyết,

無花只有寒。                                    Vô hoa chỉ hữu hàn.
笛中聞折柳,                                    Địch trung văn "Chiết liễu",
春色未曾看。                  4                Xuân sắc vị tằng khan.

曉戰隨金鼓,                                    Hiểu chiến tùy kim cổ,

宵眠抱玉鞍。                                    Tiêu miên bão ngọc an (yên).
願將腰下劍                                        Nguyện tương yêu hạ kiếm,

直渭斬樓蘭。                  8                Trực Vị trảm Lâu Lan.
李白                                                            Lý Bạch

Dịch nghĩa:

Khúc ca dưới ải (Bài một). 

Vào tháng năm, tuyết phủ ngọn núi Thiên San. Không có những bông hoa mà chỉ có thời tiết lạnh giá. Nghe trong tiếng sáo thổi lời bài hát "Bẻ liễu".Và cũng chưa từng thấy sắc màu của mùa xuân! Lúc trời sáng, trận chiến đã đi theo tiếng trống vàng (thúc trận ). Khi đêm đến lại ôm chiếc yên ngọc để cưỡi ngựa mà ngủ. Nguyện sẽ cùng thanh gươm đeo bên lưng, thẳng đến sông Vị quyết ra tay chém bọn giặc Lâu Lan.

Tạm chuyển lục bát:


KHÚC CA DƯỚI ẢI (Bài 1)

Tháng năm, tuyết phủ Thiên San,
Không hoa chỉ có lạnh tràn mà thôi!
Nghe bài "Bẻ liễu" sáo vời!
Chưa từng thấy được sắc ngời dáng xuân!
Trống vàng sáng thúc vang rần,
Ôm yên ngọc ngủ lúc màn đêm buông.
Nguyện cùng thanh kiếm bên lưn ,
Lâu Lan quyết chém thẳng dòng Vị kia!

Chú thích:
- tái 塞 âm của "tắc": chỉ nơi canh gác, đồn trú ngoài quan tái (biên tái, quan ải), vùng biên giới để ngăn giặc vào lãnh thổ.
- Thiên San (Sơn) 天山: tên dãy núi nằm ở khu vực Tân Cương của người Duy Ngô Nhĩ (Trung Á) giữa biên giới Kyrgyzstan, Kazakstan. Đối với người Tân Cương (không phải là người Hán, Trung Hoa), Thiên San là ngọn núi thiêng liêng có thần linh trú ngụ với ngọn núi cao nhất là Khan Tangri (7010m). Trước đây, khi người Hán Trung Hoa chưa chiếm đoạt và sát nhập Tân Cương vào lãnh thổ của họ, đây là vùng tranh chấp, xâm lấn qua lại giữa các bộ tộc Hung Nô, Kỳ Liên, Lâu Lan... v.v... với người Hán. Biết bao lớp người trai tráng người Hán bị bắt lính đưa đi trấn giữ vùng biên tái xa xôi ,lạnh lẽo và nguy hiểm này. Những áng văn quan trọng của nước ta như "Chinh Phụ Ngâm Khúc" của Đặng Trần Côn chịu ảnh hưởng sâu đậm các địa danh và hình ảnh hào hùng của các tướng soái người Hán: "君 心 萬 里 千 山 箭 Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn...". Đoàn Thị Điểm đã dịch nôm trong "Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca": "Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San..." (câu 34).
Chiết Liễu 折柳: tên bài hát "Chiết Liễu (bẻ nhành liễu) Chi Từ" thịnh hành thời Lý Bạch.
- an 鞍: yên cưỡi ngựa.
- trực 直:  thẳng đến, quyết tâm, lý lẽ thẳng thắn đúng đắn, dứt khoát...
- Vị 渭 tức Vị Hà 渭 河: nằm ở phía tây trung bộ Trung Hoa. Đây là nhánh sông lớn nhất chảy vào Hoàng Hà bắt nguồn từ huyện Vị Nguyên, Cam Túc, Lan Châu dài 818km và khoảng gần Hoàng Hà nhất là 200km khi sông uốn khúc. Sông chảy qua ba tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Thiểm Tây là vùng biên giới thường xảy ra chiến trận xưa kia giữa người Hán và các bộ tộc vùng biên giới.
- Lâu Lan  樓蘭: tên vua xứ Lâu Lan cũng là tên một một nước đã từng tồn tại vào thế kỳ thứ 2 (TCN) nằm ở vùng sa mạc La Bố (Tân Cương). Năm 108TCN, tướng Hán là Phó Giới Tử đã dùng vàng bạc dụ dỗ và giết chết vua Lâu Lan. Họ xâm chiếm và biến nước này thành nước chư hầu. Ngày nay chỉ còn lại ít di tích ở vùng Tân Cương của người Duy Ngô Nhĩ. 

(lần đến: bài 26, 27, 28) 

Dương Anh Sơn  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét