Thứ Năm, 22 tháng 7, 2021

Thơ Đỗ Phủ - Thu Hứng Bài 3, 4, 5

 


Thơ Đỗ Phủ - THU HỨNG Bài 3, 4, 5
Thầy Dương Anh Sơn  
 

THU HỨNG - Bài 3                        

秋興 (其三)                                          THU HỨNG (Kỳ tam)


千家山郭靜朝暉,                               Thiên gia sơn quách tĩnh triêu huy
日日江樓坐翠微。                               Nhật nhật giang lâu toạ thuý vi.
信宿漁人還泛泛,                               Tín túc ngư nhân hoàn phiếm phiếm,
清秋燕子故飛飛。                               Thanh thu yến tử cố phi phi,
匡衡抗疏功名薄,                               Khuông Hành kháng sớ công danh bạc,
劉向傳經心事違。                                Lưu Hướng truyền kinh tâm sự vi 

同學少年多不賤,                                Đồng học thiếu niên đa bất tiện,
五陵衣馬自輕肥。                                Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì.
杜甫                                                            Đỗ Phủ

Dịch nghĩa: 

Ngàn căn nhà phía ngoài thành ở vùng núi yên tĩnh trong ánh nắng mai. Mỗi ngày ngồi trên lầu sông có núi biếc. Hai đêm liền, người đánh cá vẫn còn lênh đênh,bềnh bồng (trên sóng nước). Mùa thu trong trẻo, con chim én bay lượn. Khuông Hành dâng sớ nhưng đường công danh lại bạc bẽo; Lưu Hướng truyền giảng kinh sách nhưng tình cảm trong lòng lại trái ngang! Bạn cùng học ở thời niên thiếu nhiều người (giờ đây) không phải là người hèn mọn, đã khoác áo lông cừu nhẹ và cưỡi ngựa béo ở Ngũ Lăng. 

Tạm chuyển lục bát:   

THU HỨNG (Bài 3) 

Ngàn nhà thành núi nắng mai,

Núi non lam biếc, ngày ngồi lầu sông.

Hai đêm chài cá bềnh bồng,

Mùa thu trong lắng én còn lượn quanh.

Sớ dâng, danh bạc: Khuông Hành,

Rối lòng, Lưu Hướng giảng kinh lỗi lầm.

Bạn bè thuở nhỏ chẳng hèn,

Áo cừu ngựa béo nhẹ nhàng Ngũ Lăng! 

Chú thích:

  - sơn quách 山郭: Tường bao quanh phía ngoài của thành trì vùng núi non. 

  - triêu huy 朝暉: ánh nắng mặt trời buổi sớm mai.

  - thúy vi 翠微: núi có màu lam biếc (thúy); chỗ quanh co không bằng phẳng trên núi.

  - tín túc 信宿: ngủ trọ, ở một nơi hai đêm liền.

  - hoàn phiếm phiếm 還泛泛: vẫn còn bồng bềnh, trôi nổi, không ổn định,còn lênh đênh. 

  - Khuông Hành kháng sớ 匡衡抗疏: Khuông Hành là người giỏi thơ phú, cáo sớ, thường hay dâng sớ (kháng sớ) lên triều đình. Năm 42 TCN, được Hán Nguyên đế (49-33 TCN) thời Tây Hán bên Trung Hoa trọng dụng. Do triều đình nhiều phe phái, Hành đã theo phe của Sử Cao và Thạch Hiến. Về sau ,hai người này bị nghi ngờ lừa dối vua nên phải an bài. Khuông Hành cũng bị vạ lây. Đỗ Phủ nhận xét là ông ta có đường công danh bạc bẽo!

  - Lưu Hướng 劉向: người đời Hán bên Trung Hoa tên là Canh Sinh ,sau đổi là Hướng. Ông thông minh từ nhỏ ,giỏi kinh truyện, kiến thức uyên thâm, tính tình thẳng thắng. Thời Hán Nguyên đế đã dâng sớ phê phán những thói xấu trong triều trong đó ám chỉ bọn hoạn quan và ngoại thích họ Hứa đang lộng hành. Ông và nhiều triều thần bị bọn chúng ghét xàm tấu lên vua và bị bắt giam. Sau được thả nhưng không được trọng dụng .Ông có nhiều tác phẩm có giá trị như Liệt Nữ Truyện, Biệt Lục....

  - truyền kinh 傳經: truyền giảng kinh sách, đem hiểu biết về kinh sách truyền lại cho người đời, giảng truyền kinh sách.

  - tâm sự vi 心事違: tình cảm trong lòng rối ren do chuyện lầm lỗi hay trái ngang.

  - cừu mã tự khinh phì 衣馬自輕肥: do câu thành ngữ "khinh cừu phì mã" nghĩa là khoác áo cừu nhẹ, cưỡi con ngựa béo để chỉ sự giàu sang, thong thả... 

  - Ngũ Lăng 五陵: năm lăng tẩm của các vua đời Hán ở vùng Trường An. Nhiều nhà vọng tộc, giàu có sang trọng thường xây nhà gần đó. Nguyễn Du trong bài Long Thành Cầm Giả Ca (Bắc Hành Tạp Lục / Bài 3) cũng lấy tích Ngũ Lăng khi mượn ý của Bạch Cư Dị trong Tỳ Bà Hành ["Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu..." câu 47/88]                                                                                              

秋興(其四)                                THU HỨNG (kỳ tứ) 

聞道長安似弈棋,                   Văn đạo Trường An tự dịch kỳ,
百年世事不勝悲。                   Bách niên thế sự bất thăng bi.
王侯第宅皆新主,                   Vương hầu đệ trạch giai tân chủ,
文武衣冠異昔時。                   Văn vũ y quan dị tích thì.
直北關山金鼓振,                   Trực bắc quan san kim cổ chấn,
征西車馬羽書馳。                   Chinh tây xa mã vũ thư trì.
魚龍寂寞秋江冷,                   Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,

故國平居有所思。                   Cố quốc bình cư hữu sở ti (tư).
杜甫                                           Đỗ Phủ
 

Dịch nghĩa: 

Nghe nói đường xá nơi (thành) Trường An tựa như bàn cờ. Chuyện đời trăm năm quá đỗi thương tâm không xiết! Phủ đệ, nhà cửa của các vương tôn ,các quan đại thần đều có chủ mới. Áo mũ các quan văn võ cũng khác thời trước. Thẳng phía bắc ,nơi núi non quan ải (biên giới)  vang động tiếng trống đồng. Ngựa xe đi chinh chiến miền tây có gắn lông chạy vội vàng. Loài cá, loài rồng vắng teo nơi con sông vào mùa thu lạnh lẽo. Trong lòng cứ nghĩ đến thuở thanh bình ở nơi đất nước cũ. 

Tạm chuyển lục bát:  

THU HỨNG (Bài 4) 

Đường Trường An giống cờ bàn,

Trăm năm thương xót mênh mang chuyện đời.

Công hầu nhà phủ đổi người,

Võ văn áo mũ quan thời khác xưa!

Thẳng nơi ải bắc, trống khua,

Đánh tây , xe ngựa vang đưa vội vàng!

Sông thu rồng cá lạnh tràn,

Yên bình nước cũ miên man trong lòng! 

Chú thích:

  - đạo 道: con đường ,đường xá ,đạo lý ,lẽ đạo cao sâu....

  - Trường An 長安: kinh đô đầu tiên của nhà Hán do Lưu Bang tức Hán Cao tổ xây dựng. Đây là nơi đóng đô của mười ba triều đại Trung Hoa nằm một vùng rộng lớn của Tây An phía tây bắc Bắc Kinh .Các kinh đô về sau gồm Tây An, Lạc Dương, Nam Kinh, Bắc Kinh.

  - dịch kỳ 弈棋: bàn chơi cờ, cuộc cờ ,sự thay đổi như ván cờ...

  - bất thăng bi 不勝悲: không chịu nổi việc thương tâm, nỗi xót thương  quá sức chịu đựng. 

  - đệ trạch 第宅: phủ đệ các quan lớn cùng nhà cửa của họ...

  - y quan 衣冠: áo và mũ.

  - dị tích thời 異昔時: khác thời xưa trước.

  - kim cổ chấn 金鼓振: kim: vàng, cũng chỉ chung các kim loại; cổ chấn: tiếng vang động của trống, xưa thường làm bằng đồng (v.d: trống đồng Ngọc Lũ thời Hồng Bàng của nước ta)

  - thư trì 書馳: chạy vội vàng, chạy rất nhanh. Xe do ngựa kéo có cài hoặc treo lông vũ ngày xưa thường được ưu tiên để báo tin chiến trận...

  - tịch mịch 寂寞: trống vắng, quạnh hiu, vắng tăm, lặng lẽ...

  - lãnh 冷: lạnh lùng, lạnh lẽo, nhạt nhẽo, thờ ơ, lặng lẽ... 

  - sở ti (tư) 所思: nỗi nhớ trong lòng, những suy nghĩ trong lòng...

 

秋興(其五)                               THU HỨNG (kỳ ngũ) 

蓬萊宮闕對南山,                  Bồng Lai cung khuyết đối Nam San,
承露金莖霄漢間。                  Thừa lộ kim hành tiêu Hán gian.
西望瑤池降王母,                  Tây vọng Dao Trì giáng Vương Mẫu, 

東來紫氣漢函關。                  Đông lai tử khí mãn Hàm Quan 

雲移雉尾開宮扇,                  Vân di trĩ vĩ khai cung phiến, 

日繞龍鱗識聖顏。                  Nhật nhiễu long lân thức thánh nhan.
一臥滄江驚歲晚,                  Nhất ngọạ Thương giang kinh tuế vãn,
幾回青瑣點朝班。                  Kỷ hồi Thanh Toả điểm triều ban.
杜甫                                                       Đỗ Phủ
 
Dịch nghĩa:
 

Cung Bồng Lai hướng về núi Nam. Thân trụ bằng đồng hứng lấy những giọt sương móc giữa đêm ở khoảng trời vùng đất Hán. Phía tây ,trông về cung Dao Trì, nơi Tây Vương Mẫu giáng xuống. Làn khí màu tím tràn đầy tỏa đến từ phía đông của (cửa ải) Hàm Quan. Chiếc quạt lông đuôi chim trĩ mở ra trong cung như đám mây đang di chuyển. Ban ngày, những chiếc vảy rồng nhiễu quanh nên biết là có dung mạo nhà vua. Một lần nằm nơi sông Thương, kinh sợ lúc năm sắp tàn. Bao lần ngoảnh lại Thanh Tỏa vào thời điểm trong triều đình ban bố chỉ thị. 

Tạm chuyển lục bát : 

CẢM HỨNG MÙA THU (Bài 5)                           

Núi Nam hướng mặt cung Bồng,

Trời đêm vùng Hán cột đồng đón sương.

Dao Trì ,Vương Mẫu tây trông,

Hàm Quan hơi tía từ đông tràn đầy.

Quạt đuôi trĩ mở chuyển mây,

Vảy rồng biết được ban ngày thánh nhan.                           .

Sông Thương nằm sợ năm tàn,

Ngoảnh về Thanh Tỏa triều ban bao lần. 

Chú thích: 

  - Bồng Lai  蓬萊: tên một cung điện ở Trường An (xem thêm C.T bài  Thu hứng 4).

  - Nam San 南山: tức Chung Nam San 終南山, một ngọn núi danh tiếng ở phía nam Trường An là nơi nhiều đạo sĩ và ẩn sĩ trú ngụ xưa kia.

  - thừa lộ 承露: đón nhận, nhận lấy, hứng lấy những giọt móc của sương.

  - kim hành 金莖: hành: thân cây, cọng cây, sợi cỏ. Đây chỉ cây cột bằng đồng của Hán Vũ đế. Nhà vua tin chuyện thần tiên về "trường sinh bất tử" đã cho dựng cây cột ống đồng hứng những giọt móc rơi xuống hòa với bột ngọc để uống mong được sống lâu.

 - tiêu Hán gian 霄漢間: tiêu: khoảng trời không, khí trời ,ban đêm,mây trời ,sương mù, mưa lả tả... Bầu trời đêm của không gian nhà Hán (Hán: nhà Hán, sông Hán, Thiên Hà...)

  - Vương Mẫu 王母: tức Tây Vương Mẫu 西王母: là một nhân vật huyền thoại của Trung Hoa từ thời nhà Chu. Bà được rất nhiều sách vở nói đến với nhiều hình dạng khác nhau khi là một người xấu xí tàn ác ,khi là một người đẹp đẽ hiền lành... v.v... ở núi Côn Lôn nơi có cung Dao Trì và vườn đào tiên. Tương truyền ,bà từng trao Đạo Đức Kinh cho Lão Tử ,gặp Chu Vũ vương và Hán Vũ đế.... 

  - Hàm Quan 函關: tức là cửa ải Hàm Cốc (函谷關 Hàm Cốc Quan) ,một cửa ải quan trọng nằm ở bờ phía nam Hoàng Hà, vùng Tây An xưa (Thiểm Tây) nơi xảy ra nhiều trận đánh trong thời Chiến Quốc, cho đến khi Tần Thủy hoàng thống nhất Trung Hoa. Nó là quan ải áng ngữ cho vùng Lạc Dương, Quan Trung.Năm 296 TCN, liên quân Tề, Ngụy. Hàn đã đánh bại quân của Tần Chiêu Tương vương ở Hàm Cốc Quan. Tương truyền Lão Tử trước khi qua ải đi sang phía tây đã chép lại Đạo Đức Kinh tặng cho viên quan trấn ải.

  - nhật 日: ban ngày, mặt trời....

  - thánh nhan 聖顏: chữ dùng tôn kính khi nói đến diện mạo nhà vua (các từ như thánh chỉ, thánh dụ, thánh huấn....  mang ý nghĩa tôn kính khi nói đến vua chúa...)

  - kỷ hồi 幾回: bao lần quay đầu lại, bao lần ngoảnh lại...

  - Thanh Tỏa 青瑣: tên một cửa ra vào của các quan ở cung điện trong thành Trường An.

  - triều ban 朝班: ban bố những chỉ dụ của triều đình ngày xưa.

Dương Anh Sơn 

(lần đến: THU HỨNG Bài 6,7, 8 / 8 bài Thu hứng/Đỗ Phủ) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét