THU HỨNG - Bài 3
秋興 (其三)
THU HỨNG (Kỳ tam)
千家山郭靜朝暉,
Thiên gia sơn quách tĩnh
triêu huy
日日江樓坐翠微。
Nhật nhật giang lâu toạ thuý
vi.
信宿漁人還泛泛,
Tín túc ngư nhân hoàn phiếm
phiếm,
清秋燕子故飛飛。
Thanh thu yến tử cố phi phi,
匡衡抗疏功名薄,
Khuông Hành kháng sớ công danh
bạc,
劉向傳經心事違。
Lưu Hướng truyền kinh tâm sự
vi
同學少年多不賤,
Đồng học
thiếu niên đa bất tiện,
五陵衣馬自輕肥。
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì.
杜甫
Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
Ngàn căn nhà phía ngoài thành ở vùng núi yên tĩnh trong ánh nắng mai. Mỗi ngày ngồi trên lầu sông có núi biếc. Hai đêm liền, người đánh cá vẫn còn lênh đênh,bềnh bồng (trên sóng nước). Mùa thu trong trẻo, con chim én bay lượn. Khuông Hành dâng sớ nhưng đường công danh lại bạc bẽo; Lưu Hướng truyền giảng kinh sách nhưng tình cảm trong lòng lại trái ngang! Bạn cùng học ở thời niên thiếu nhiều người (giờ đây) không phải là người hèn mọn, đã khoác áo lông cừu nhẹ và cưỡi ngựa béo ở Ngũ Lăng.
Tạm chuyển lục bát:
THU HỨNG (Bài 3)
Ngàn nhà thành núi nắng
mai,
Núi non lam biếc, ngày
ngồi lầu sông.
Hai đêm chài cá bềnh bồng,
Mùa thu trong lắng én còn
lượn quanh.
Sớ dâng, danh bạc:
Khuông Hành,
Rối lòng, Lưu Hướng
giảng kinh lỗi lầm.
Bạn bè thuở nhỏ chẳng hèn,
Áo cừu ngựa béo nhẹ nhàng Ngũ Lăng!
Chú thích:
- sơn quách 山郭: Tường bao quanh
phía ngoài của thành trì vùng núi non.
- triêu huy 朝暉: ánh nắng mặt trời
buổi sớm mai.
- thúy vi 翠微: núi có màu lam biếc
(thúy); chỗ quanh co không bằng phẳng trên núi.
- tín túc 信宿: ngủ trọ, ở một nơi
hai đêm liền.
- hoàn phiếm
phiếm 還泛泛: vẫn còn bồng bềnh, trôi nổi, không ổn
định,còn lênh đênh.
- Khuông Hành
kháng sớ 匡衡抗疏: Khuông Hành là người giỏi thơ phú, cáo
sớ, thường hay dâng sớ (kháng sớ) lên triều đình. Năm 42 TCN, được Hán
Nguyên đế (49-33 TCN) thời Tây Hán bên Trung Hoa trọng dụng. Do triều đình
nhiều phe phái, Hành đã theo phe của Sử Cao và Thạch Hiến. Về sau ,hai người
này bị nghi ngờ lừa dối vua nên phải an bài. Khuông Hành cũng bị vạ lây. Đỗ
Phủ nhận xét là ông ta có đường công danh bạc bẽo!
- Lưu
Hướng 劉向: người đời Hán bên Trung Hoa tên là Canh
Sinh ,sau đổi là Hướng. Ông thông minh từ nhỏ ,giỏi kinh truyện, kiến thức uyên
thâm, tính tình thẳng thắng. Thời Hán Nguyên đế đã dâng sớ phê phán những thói
xấu trong triều trong đó ám chỉ bọn hoạn quan và ngoại thích họ Hứa đang lộng
hành. Ông và nhiều triều thần bị bọn chúng ghét xàm tấu lên vua và bị bắt
giam. Sau được thả nhưng không được trọng dụng .Ông có nhiều tác phẩm có
giá trị như Liệt Nữ Truyện, Biệt Lục....
- truyền
kinh 傳經: truyền giảng kinh sách, đem hiểu biết về
kinh sách truyền lại cho người đời, giảng truyền kinh sách.
- tâm sự
vi 心事違: tình cảm trong lòng rối ren do chuyện lầm
lỗi hay trái ngang.
- cừu mã tự
khinh phì 衣馬自輕肥: do câu thành ngữ "khinh cừu phì
mã" nghĩa là khoác áo cừu nhẹ, cưỡi con ngựa béo để chỉ sự giàu sang, thong thả...
- Ngũ Lăng 五陵: năm lăng tẩm của các vua đời Hán ở vùng Trường An. Nhiều nhà vọng tộc, giàu có sang trọng thường xây nhà gần đó. Nguyễn Du trong bài Long Thành Cầm Giả Ca (Bắc Hành Tạp Lục / Bài 3) cũng lấy tích Ngũ Lăng khi mượn ý của Bạch Cư Dị trong Tỳ Bà Hành ["Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu..." câu 47/88]
秋興(其四) THU HỨNG (kỳ tứ)
聞道長安似弈棋, Văn đạo Trường An tự
dịch kỳ,
百年世事不勝悲。 Bách niên thế sự bất thăng bi.
王侯第宅皆新主, Vương hầu đệ trạch giai tân chủ,
文武衣冠異昔時。 Văn vũ y quan dị tích thì.
直北關山金鼓振, Trực bắc quan san kim cổ chấn,
征西車馬羽書馳。 Chinh tây xa mã vũ thư trì.
魚龍寂寞秋江冷, Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
故國平居有所思。 Cố quốc bình cư
hữu sở ti (tư).
杜甫 Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
Nghe nói đường xá nơi (thành) Trường An tựa như bàn cờ. Chuyện đời trăm năm quá đỗi thương tâm không xiết! Phủ đệ, nhà cửa của các vương tôn ,các quan đại thần đều có chủ mới. Áo mũ các quan văn võ cũng khác thời trước. Thẳng phía bắc ,nơi núi non quan ải (biên giới) vang động tiếng trống đồng. Ngựa xe đi chinh chiến miền tây có gắn lông chạy vội vàng. Loài cá, loài rồng vắng teo nơi con sông vào mùa thu lạnh lẽo. Trong lòng cứ nghĩ đến thuở thanh bình ở nơi đất nước cũ.
Tạm chuyển lục bát:
THU HỨNG (Bài 4)
Đường Trường An giống cờ
bàn,
Trăm năm thương xót mênh
mang chuyện đời.
Công hầu nhà phủ đổi
người,
Võ văn áo mũ quan thời
khác xưa!
Thẳng nơi ải bắc, trống
khua,
Đánh tây , xe ngựa vang
đưa vội vàng!
Sông thu rồng cá lạnh
tràn,
Yên bình nước cũ miên man trong lòng!
Chú thích:
- đạo 道: con đường ,đường xá
,đạo lý ,lẽ đạo cao sâu....
- Trường An 長安: kinh đô đầu tiên
của nhà Hán do Lưu Bang tức Hán Cao tổ xây dựng. Đây là nơi đóng đô của mười ba
triều đại Trung Hoa nằm một vùng rộng lớn của Tây An phía tây bắc Bắc Kinh .Các
kinh đô về sau gồm Tây An, Lạc Dương, Nam Kinh, Bắc Kinh.
- dịch kỳ 弈棋: bàn chơi cờ, cuộc
cờ ,sự thay đổi như ván cờ...
- bất thăng bi 不勝悲: không chịu nổi việc thương tâm, nỗi xót
thương quá sức chịu đựng.
- đệ trạch 第宅: phủ đệ các quan lớn
cùng nhà cửa của họ...
- y quan 衣冠: áo và mũ.
- dị tích
thời 異昔時: khác thời xưa trước.
- kim cổ
chấn 金鼓振: kim: vàng, cũng chỉ chung các kim loại; cổ
chấn: tiếng vang động của trống, xưa thường làm bằng đồng (v.d: trống đồng Ngọc
Lũ thời Hồng Bàng của nước ta)
- thư trì 書馳: chạy vội vàng, chạy
rất nhanh. Xe do ngựa kéo có cài hoặc treo lông vũ ngày xưa thường được ưu tiên
để báo tin chiến trận...
- tịch
mịch 寂寞: trống vắng, quạnh hiu, vắng tăm, lặng lẽ...
- lãnh 冷: lạnh lùng, lạnh lẽo, nhạt nhẽo, thờ ơ, lặng lẽ...
- sở ti (tư) 所思: nỗi nhớ trong lòng, những suy nghĩ trong lòng...
秋興(其五) THU HỨNG (kỳ ngũ)
蓬萊宮闕對南山, Bồng Lai cung khuyết đối
Nam San,
承露金莖霄漢間。 Thừa lộ kim hành tiêu Hán gian.
西望瑤池降王母, Tây vọng Dao Trì giáng Vương Mẫu,
東來紫氣漢函關。 Đông lai tử khí mãn Hàm
Quan
雲移雉尾開宮扇, Vân di trĩ vĩ khai cung
phiến,
日繞龍鱗識聖顏。 Nhật nhiễu long lân thức
thánh nhan.
一臥滄江驚歲晚,
Nhất ngọạ Thương giang kinh tuế vãn,
幾回青瑣點朝班。 Kỷ hồi Thanh Toả điểm triều ban.
杜甫
Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
Tạm chuyển lục bát :
CẢM HỨNG MÙA THU (Bài 5)
Núi Nam hướng mặt cung
Bồng,
Trời đêm vùng Hán cột
đồng đón sương.
Dao Trì ,Vương Mẫu tây
trông,
Hàm Quan hơi tía từ đông
tràn đầy.
Quạt đuôi trĩ mở chuyển
mây,
Vảy rồng biết được ban
ngày thánh nhan.
.
Sông Thương nằm sợ năm
tàn,
Ngoảnh về Thanh Tỏa triều ban bao lần.
Chú thích:
- Bồng Lai 蓬萊: tên một cung điện ở Trường An (xem thêm C.T
bài Thu hứng 4).
- Nam San 南山: tức Chung Nam
San 終南山, một ngọn núi danh tiếng ở phía nam
Trường An là nơi nhiều đạo sĩ và ẩn sĩ trú ngụ xưa kia.
- thừa lộ 承露: đón nhận, nhận
lấy, hứng lấy những giọt móc của sương.
- kim
hành 金莖: hành: thân cây, cọng cây, sợi cỏ. Đây chỉ
cây cột bằng đồng của Hán Vũ đế. Nhà vua tin chuyện thần tiên về "trường
sinh bất tử" đã cho dựng cây cột ống đồng hứng những giọt móc rơi xuống
hòa với bột ngọc để uống mong được sống lâu.
- tiêu Hán
gian 霄漢間: tiêu: khoảng trời không, khí trời
,ban đêm,mây trời ,sương mù, mưa lả tả... Bầu trời đêm của không gian nhà Hán
(Hán: nhà Hán, sông Hán, Thiên Hà...)
- Vương
Mẫu 王母: tức Tây Vương Mẫu 西王母: là một nhân vật
huyền thoại của Trung Hoa từ thời nhà Chu. Bà được rất nhiều sách vở nói đến
với nhiều hình dạng khác nhau khi là một người xấu xí tàn ác ,khi là một người
đẹp đẽ hiền lành... v.v... ở núi Côn Lôn nơi có cung Dao Trì và vườn đào tiên.
Tương truyền ,bà từng trao Đạo Đức Kinh cho Lão Tử ,gặp Chu Vũ vương và Hán Vũ
đế....
- Hàm
Quan 函關: tức là cửa ải Hàm Cốc (函谷關 Hàm Cốc Quan) ,một
cửa ải quan trọng nằm ở bờ phía nam Hoàng Hà, vùng Tây An xưa (Thiểm Tây) nơi
xảy ra nhiều trận đánh trong thời Chiến Quốc, cho đến khi Tần Thủy hoàng thống
nhất Trung Hoa. Nó là quan ải áng ngữ cho vùng Lạc Dương, Quan Trung.Năm
296 TCN, liên quân Tề, Ngụy. Hàn đã đánh bại quân của Tần Chiêu Tương vương ở
Hàm Cốc Quan. Tương truyền Lão Tử trước khi qua ải đi sang phía tây đã chép
lại Đạo Đức Kinh tặng cho viên quan trấn ải.
- nhật 日: ban ngày, mặt
trời....
- thánh
nhan 聖顏: chữ dùng tôn kính khi nói đến diện mạo nhà vua
(các từ như thánh chỉ, thánh dụ, thánh huấn.... mang ý nghĩa tôn kính
khi nói đến vua chúa...)
- kỷ hồi 幾回: bao lần quay đầu
lại, bao lần ngoảnh lại...
- Thanh
Tỏa 青瑣: tên một cửa ra vào của các quan ở cung điện
trong thành Trường An.
- triều ban 朝班: ban bố những chỉ dụ của triều đình ngày xưa.
Dương Anh Sơn
(lần đến: THU HỨNG Bài 6,7, 8 / 8 bài Thu hứng/Đỗ Phủ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét