Thứ Tư, 22 tháng 9, 2021

Nguyễn Du - Thanh Hiên Thi Tập - Bài 32, 33, 34

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
Thầy Dương Anh Sơn

TẬP I : THANH HIÊN THI TẬP

Bài 32 

KÝ HUYỀN HƯ TỬ                                              寄玄虛子

Thiên Thai sơn tiền độc bế môn,                             
天台山前獨閉門
Tây phong trần cấu mãn trung nguyên.                   
西風塵垢滿中原
Điền gia bất trị Nam Sơn đậu,                                 
田家不治南山豆
Bần hộ thường không Bắc Hải tôn.                         
戶常空北海樽
Dã hạc phù vân thì nhất kiến,                                 
野鶴浮雲時一見
Thanh phong minh nguyệt dạ vô ngôn.                   
清風明月夜無言
Viễn lai chí thủ tương tầm lộ,                                  
遠來誌取相尋路
Gia tại Hồng Sơn đệ nhất thôn.                               
家在鴻山第一村
Nguyễn Du                                                             
   
 

Dịch nghĩa:
Nhà cửa lẻ loi trước ngọn núi Thiên Thai vẫn thường then cài cửa đóng; trận gió từ phía tây tung bụi bặm đầy khắp cánh đồng. Nhà vườn, không sửa soạn để trồng đậu Nam Sơn; nhà lại rất nghèo, chén rượu Bắc Hải thường không có. Mấy lúc được gặp thầy như là hạc nội, mây trôi nổi; đêm có gió mát và vầng trăng sáng nhưng không có người để chuyện trò. Thầy ở xa đến, khi tìm đường hãy nhớ cho: nhà tôi ở thôn đầu tiên của ngọn núi Hồng.


Tạm chuyển lục bát:

GỬI THẦY HUYỀN HƯ

Cài then trước núi Thiên Thai,
Gió tây giữa cánh đồng đầy bụi tung.
Nam Sơn chẳng soạn đậu trồng,
Nhà nghèo Bắc Hải vò không vẫn thường.
Gặp nhau: mây nổi, hạc đồng,
Đêm đêm trăng sáng gió trong không lời.
Đường xa tìm đến nhớ thôi:
Thôn đầu tiên ấy, nhà nơi núi Hồng!

Chú thích:
- Huyền Hư Tử 玄 虛 子: đạo hiệu của người bạn Nguyễn Du tu theo phép đạo Lão; tên tuổi không rõ, có lẽ cùng là người đi ở ẩn như Nguyễn Du. Chữ “tử” (thầy) dùng để chỉ người đáng kính.
- tây phong 西 風: ngọn gió thổi từ phía tây. Đây có lẽ ám chỉ nhà Tây Sơn nổi lên bắt đầu cho một thời kỳ gió tung bụi bặm, đao binh loạn lạc.
- trị  : sửa, trừng trị, so sánh....
- Nam Sơn đậu : đậu trồng ở Nam Sơn. Lấy ý từ một bài thơ của Dương Vận đời Hán, Trung Hoa nói về việc trồng đậu không kết quả; cây trái héo khô ví như việc vua Hán bỏ rơi mình.
- Bắc Hải tôn 北 : chén rượu Bắc Hải chỉ việc Khổng Dung (T.H) làm thái thú Bắc Hải lúc nào cũng có đầy rượu để đãi khách. Nguyễn Du muốn nói mình tuy ở ẩn ở Hồng Lĩnh nhưng nhà nghèo không trồng gì và cũng không có rượu để tiếp bạn.
- dã hạc : chim hạc nơi cánh đồng, chỉ những người ở ẩn để giữ sự cao khiết.
- chí : âm của “thức” (nhận biết, hiểu ra) có nghĩa là ghi nhớ, dấu hiệu, đánh dấu, mốc...
- thủ 取: giữ lấy, lấy, cầm...
 

Bài 33

KÝ GIANG BẮC HUYỀN HƯ TỬ                        
寄江北玄虛子
 

Trường An khứ bất tức,                                             
長安去不息
Hương tứ tại thiên nha.                                             
鄉思在天涯
Thiên nha bất khả kiến,                                             
天涯不可見
Đãn kiến trần dữ sa.                                                   
但見塵與沙
Tây phong thoát mộc diệp,                                         
西風脫木葉
Bạch lộ tổn hoàng hoa.                                             
白露損黃花
Trân trọng hảo tự ái,                                                   
珍重好自愛
Thu cao, sương lộ đa.                                               
秋高霜露多
Nguyễn Du                                                              
     

Dịch nghĩa:

Trường An đi đến nơi đây không hơi tăm gì cả, có lẽ (thầy) vẫn nhớ quê hương ở xa tít chân trời! Chân trời không thể thấy được; chỉ thấy bụi mù cùng với cát mà thôi. Cơn gió từ phía tây làm cho lá phải xa rời cây; sương móc trắng làm tổn hại hoa (cúc) vàng. Xin anh giữ gìn, bảo trọng mình cho được đẹp đẽ vì càng vào thu, sương và móc sương càng nhiều.


Tạm chuyển lục bát:

GỬI THẦY HUYỀN HƯ Ở PHÍA BẮC DÒNG SÔNG

Trường An đến chẳng hơi tăm!
Quê hương vẫn nhớ xa xăm góc trời.
 Góc trời chẳng thấy mù khơi,
Thấy là cát bụi tơi bời chốn đây!
Gió tây lá rụng rời cây,
Hoa vàng móc trắng giăng bày xác xơ.
Giữ mình tốt đẹp nhớ cho,
Vào thu móc tỏa, sương mờ nhiều hơn.

Chú thích:
- tử : tiếng tôn xưng gọi thầy là tử. Ví dụ: 孟子 Mạnh Tử, 莊子Trang Tử, 老子 Lão Tử; học trò cũng gọi là tử… (xem bài 32)
- hương tứ 鄉思 : nghĩ ngợi, nhớ nghĩ về quê hương.
- tây phong 西風: (xem bài 32) có lẽ Nguyễn Du muốn nói đến việc nhà Tây Sơn nổi lên đã gây nên một trận gió bụi làm đổi thay mọi thứ và khiến cho nhiều nhà nho phải “thoát mộc diệp”, phải “rời bỏ cây” để tìm nơi ẩn lánh. Câu 6 cũng tiếp ý cho câu 5 này.

** Hai câu cuối (câu kết): là lời nhắn nhủ và nhắc nhở bạn mình khi về chốn Thăng Long (cách thường gọi của các nho sĩ nước ta thời trước là Trường An) phải giữ gìn vì còn có nhiều khó khăn đang chờ đón (sương lộ đa: sương và móc sương rất nhiều). 

Bài 34   

KÝ HỮU (Kỳ nhất)                                                 友(其一)

Mạc mạc trần ai mãn thái không,                              漠漠塵埃滿太空
Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung.                              
閉門高枕臥其中
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,                       
一天明月交情在
Bách lý Hồng Sơn chính khí đồng.                           
百里鴻山正氣同
Nhãn để phù vân khan thế sự,                                   
眼底浮雲看世事
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.                      
腰間長劍掛秋風
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc,                                 
無言獨對庭前竹
Sương tuyết tiêu thời hợp hoá long.                          
霜雪消時合化龍
Nguyễn Du                                       
                           


Dịch nghĩa:

Bầu trời rộng lớn đầy bụi cát mịt mờ. Cài then đóng cửa nằm gối cao trong nhà. Một trời trăng tỏa sáng, mối giao tình với bạn bè đằm thắm. Cả trăm dặm dài của núi Hồng cùng chung nhau hào khí mạnh mẽ. Dưới đáy mắt xem việc đời như mây nổi ! Ngang thắt lưng mang cây kiếm dài gánh làn gió thu. Một mình lặng im nhìn khóm trúc trước sân; một khi sương tuyết tan đi hết rồi nó sẽ họp nhau hóa thành rồng.


Tạm chuyển lục bát:


GỬI BẠN (Bài 1)

Bầu trời bụi khắp mờ tăm,
Then cài cửa đóng trong nằm gối cao.
Một trời trăng sáng tình trao,
Non Hồng trăm dặm khí hào cùng chung.
Chuyện đời mây nổi mắt trông,
Gió thu thổi lướt trên lưng kiếm dài.
Lặng xem sân trúc riêng ai,
Sương tan, tuyết chảy họp đây thành rồng.


Chú thích:

** Đây là bài thơ mang tâm sự hoài vọng của những người đang ẩn dật chờ thời như Nguyễn Du và các bạn bè cùng chí hướng. Dù trong thời buổi tao loạn, họ vẫn giữ được tiết khí của mình như loài trúc, như ánh trăng sáng, là những biểu tượng của người quân tử xưa kia, để một ngày nào đó hóa thành rồng giúp người.
- mạc mạc 漠 漠: mây mù mịt mờ.
- thái không 太 空: chỉ bầu trời cao rộng.
- cao chẩm 高 枕: (nằm) gối cao. Đây là cách nói về hành vi của người ở ẩn sống thanh nhàn, xa lánh những bộn bề, bụi bặm trong cuộc đời.
- giao tình 交 情: tình cảm trao nhau chan hòa.
- chính khí 正 氣: tinh thần mạnh mẽ của trời đất ban cho con người hay còn gọi là “hạo nhiên chi khí”. khí độ của người chân chính.
- nhãn để 眼 底: dưới mắt, trong đáy mắt.
- vô ngôn 無 言: không lời, lặng câm không nói gì.... 

Saigon, 2003

Dương Anh Sơn

(Lần đến: Bài 35, 36, 37/THTT)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét