“ Tết Trung Thu rước
đèn đi chơi
Em rước đèn đi khắp
phố phường
Lòng vui sướng với đèn
trong tay
Em múa ca trong ánh trăng rằm ”
Câu hát ấy đã nằm lòng
với bao người, đã gắn bó với thời thơ ấu của bao nhiều người dân Việt Nam. Và
tết trung thu, cái tết thiếu nhi thân thương ấy đã trở thành những hồi ức không
thể nào quên của những ai đã đi qua những đêm say xưa trong ánh đèn ông sao và
nhảy múa dưới ánh trăng rằm sáng rỡ.
Dù đã được nhiên cứu
nhưng vẫn chưa có phân tích nào chỉ ra được nguồn gốc của ngày tết dân gian
này. Tết trung thu có thể bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước Việt Nam, hình ảnh
tết trung thu đã từng được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lũ xa xưa. Song cũng
có thể là dân ta tiếp nhận từ nền văn hóa Trung Quốc. Người dân Việt Nam thường
biết đến nguồn gốc tết trung thu qua các câu chuyện truyền thuyết về chú Cuội,
Hằng Nga và cung trăng của dân gian. Trong “Việt Nam phong tục”, Phan Kế Bính
cho rằng tục bày cỗ có từ thời vua Đường Hoàng Minh như một nghi thức ăn mừng
sinh nhật vua, tục rước đèn tự do là có từ thời nhà Tống, tục hát trống quân là
từ thời Quang Trung Nguyễn Huệ.
Tết trung thu, hay còn
gọi là tết thiếu nhi, tết trông trăng, tết hoa đăng, được tổ chức vào ngày rằm
tháng tám hằng năm. Tết trung thu được tổ chức ở nhiều quốc gia châu Á như Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,… Ở Đài Loan, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc,
ngày tết này còn một ngày nghỉ lễ quốc gia. Tết trung thu được tổ chức vào một
ngày rằm nhưng việc chuẩn bị được thực hiện từ trước đó và được nhiều người
tham gia góp sức. Trước ngày tết, mọi người sẽ cùng làm đèn lồng, làm bánh
trung thu, chuẩn bị mâm ngũ quả,… Đến ngày tết thì cùng nhau xem múa lân, đi
rước đèn dưới cung trăng, phá cỗ,…
Đèn lồng, đèn trung
thu thường được là bằng những vật liệu thông dụng như gỗ và giấy ni lông. Khung
gỗ được tạo thành nhiều hình dáng khác nhau rồi được dán ni lông bóng màu sắc
lên để trông đẹp mắt. Nào là ông sao, con gà, con cá,… Ngày nay, người ta còn
sản xuất những lồng đèn bằng điện với nhiều hình thù khác nhau và đẹp mắt hơn.
Tuy nhiên, nó không lưu giữ được những giá trị dân gian như lồng đèn thủ công
và không tạo được sự gắn kết như khi mọi người cùng làm lồng đèn. Lễ rước lồng
đèn thường được duy trì ở các làng xóm vùng nông thôn, nơi mọi người sống gần
gũi với nhau, còn đối với những vùng đô thị thì ít thấy hơn. Một hoạt động
không thể thiếu của ngày tết này chính là múa lân, hay còn gọi là múa sư tử.
Trước ngày tết chính, những đoàn múa sư tử đã biểu diễn trên dọc các con đường
rồi, nhưng nhộn nhịp nhất và thu hút nhiều người nhất vẫn là đêm mười lăm mười
sáu. Trung thu, cũng như bao ngày tết khác, cũng có một mâm cỗ, thường có trung
tâm là con chó làm bằng tép bưởi, xung quanh bày thêm hoa quả và bánh kẹo. Bên
cạnh đó, người dân Việt Nam có tục ăn bánh vào ngày này, gọi là bánh trung thu.
Đó có thể là bánh nướng truyền thống, bánh nướng hình con lợn, bánh dẻo,...
Ngày tết trung thu còn là ngày xem trăng, người ta ngắm trăng để tiên đoán mùa
màng và quốc gia. Nếu trăng vàng thì trúng mùa tơ tằm, trăng xanh hay lục thì
thiên tai, trăng cam thì quốc gia thái bình thịnh trị.
Tết trung thu mang
nhiều ý nghĩa hơn cái tên tết thiếu nhi của nó. Đó là ngày lễ để trẻ em được
tung tăng vui chơi, gặp gỡ nhau, cùng nhau phá cỗ rước đèn, tận hưởng ngày lễ
dành riêng cho mình. Hơn thế, đây còn là dịp mọi người quây quần nói chuyện
cùng nhau, là ngày để mọi người gần gũi nhau hơn. Ngày tết trung thu này cũng
là ngày lễ của dân tộc, là nét văn hóa dân gian mang hơi thở truyền thống đậm
đà, thể hiện sâu sắc bản sắc văn hóa dân tộc, là một nét đặc trưng của đất
nước. Cho đến bây giờ, người dân vẫn duy trì tổ chức ngày tết này những ít
nhiều đã làm hao hụt đi những giá trị truyền thống như không còn những đoàn
rước đèn rộ rã, đèn lồng truyền thống bị những loại đèn hiện đại khác thay
thế,… Vì vậy, ta không chỉ duy trì ngày tết mà còn cần bảo tồn những giá trị
vốn có của nó, cần giữ cho ngày tết đúng với ý nghĩa ban đầu để mang lại một
ngày tết vẹn tròn cho lứa tuổi thơ.
“Trung thu liên hoan
trăng sáng ngập đường làng
Dưới ánh trăng vàng em
cất tiếng hát vang”
Một câu hát quen
thuộc, một câu hát nữa của tuổi thơ gọi bao tâm trí về với những ngày trung thu
đẹp đẽ. Cứ như thế, dư vị trung thu đã đi qua bao lớp người, đã đi qua bao lứa
tuổi thơ và vẫn mãi in dấu với những đêm vui chơi bên mâm cỗ, trong tiếng trống
linh đình dưới ánh trăng vàng dịu êm.
Thuyết minh về mâm cỗ
Trung thu hay nhất
Tục lệ ăn bánh hình
mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây
trên 1.000 năm. Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng,
lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng
còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có
dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu
không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Trong đêm trung thu
thường có các lễ hội và như: rước đèn, múa lân. Nếu như ngoài Bắc gọi là múa sư
tử thì trong Nam lại gọi là múa lân. Lân là con vật thần thoại, thân hươu, móng
ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng
ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có
người tốt mới nhìn thấy nó được.
Tết Trung Thu của
người Việt có nhiều điểm đặc biệt khác với Tết Trung Thu của người Trung Hoa.
Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và
làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.
Thông thường một mâm
cỗ trung thu sẽ bao gồm như sau: kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác
nhau và đặc biệt thứ không thiếu được là bánh trung thu. Cũng trong dịp này
người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ,
thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ
lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Trung thu là dịp để
trẻ em được vui chơi và cũng là dịp để con cháu báo hiếu với cha mẹ. Tết Trung
Thu là tết của trẻ em. Sửa soạn mọi thứ như: cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình
thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với những
đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa
là ông Tiến sĩ giấy.
Mâm cỗ Trung Thu thông
thường có trọng tâm là con chó được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen
làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập
cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con bép múp míp, hoặc
hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên
vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm
Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả,
thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm
màu xanh, vài quả na dai… và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi
trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức
hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích
Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay
lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay
lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt trăng, có thể thấy một vết đen
rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình
chú Cuội ngồi gốc cây đa.
Bên cạnh đó còn có các
hoạt động như: Hát trống quân-Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống
quân. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có
khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân
rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Người ta dùng những bài
thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân,
theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Sau này, điệu
hát trống quân đã được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân
ra Bắc đại phá quân nhà Thanh vào năm 1788. Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài
cho một số binh lính giả làm gái để trai gái đôi bên hát đối đáp với nhau trong
khi người ta đánh trống theo nhịp ba để phụ họa. Do đó, quân lính vui mà bớt
nhớ nhà. Điệu hát trống quân được thịnh hành từ thời Nguyễn Huệ trở đi. Người
Trung Hoa không có phong tục này. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong
tục này.
Vào dịp Tết Trung Thu
có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp
Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp
Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có
những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân
thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của
con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người
cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn
màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân… Ðám múa Lân đi trước, người
lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải
thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ
nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích
lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý
nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta
ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì
năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có
thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.
Tết Trung Thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của săn sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương yêu. Chúng ta cố gắng duy trì và phát triển ý nghĩa cao đẹp này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét