Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2021

Thơ Lý Bạch - Bài 26, 27, 28

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 26, 27, 28
Thầy Dương Anh Sơn

Chào Ban Biên Tập,

Xin gửi tiếp ba bài thơ của Lý Bạch, trong đó bài TƯƠNG TIẾN TỬU là một trong những bài rất nổi tiếng của Lý Bạch được nhiều người biết đến. Chúc BBT luôn vui và khỏe.

Bài 26

TƯƠNG TIẾN TỬU                                                           將進酒    

Quân bất kiến:                                                                       君不見

Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai.                                     黃河之水天上來,

Bôn lưu đáo hải bất phục hồi,                                               奔流到海不復回

Hựu bất kiến:                                                                         又不見:

Cao đường minh kính bi bạch phát,                                      高堂明鏡悲白髮,

Triêu như thanh ty  mộ thành tuyết.                                      朝如青絲暮成雪?

Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,                                                 人生得意須盡歡,

Mạc sử kim tôn không đối nguyệt.                                       莫使金樽空對月。

Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,                                            天生我才必有用,

Thiên kim tán tận hoàn phục lai.                                           千金散盡還復來。

Phanh dương ,tể ngưu thả vi lạc,                                           烹羊宰牛且為樂,

Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.                                                會須一飲三百杯。

Sầm phu tử,                                                                           岑夫子,

Đan Khâu sinh.                                                                      丹丘生,

Tương tiến tửu,                                                                      將進酒,

Bôi mạc đình.                                                                        杯莫停。

Dữ quân ca nhất khúc,                                                           與君歌一曲,

Thỉnh quân vị ngã khuynh dĩ thính.                                      請君為我傾耳聽。

Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,                                          鐘鼓饌玉不足貴,

Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh.                              但願長醉不願醒。

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,                                           古來聖賢皆寂寞,

Duy hữu ẩm giả giai kỳ danh .                                              唯有飲者留其名。

Trần Vương tích thời yến Bình Lạc,                                     陳王昔時宴平樂,

Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước                                          斗酒十千恣歡謔。

Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,                                            主人何為言少錢,

Kính tu cô thủ đối quân chước.                                             逕須沽取對君酌。

Ngũ hoa mã,                                                                          五花馬,

Thiên kim cừu.                                                                      千金裘,

Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,                                           呼兒將出換美酒,

Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.                                                與爾同消萬古愁。

Lý Bạch                                                                               李白

Dịch nghĩa:

Rượu sắp mời.

Bạn không thấy sao?!: nước Hoàng Hà đến từ trên trời, vội vàng chảy ra biển không quay trở lại! Lại không thấy sao!?: thương cho mái tóc bạc khi soi vào tấm gương sáng trong ngôi nhà cao! Buổi sáng (mái tóc) như là những sợi tơ xanh, chiều tối đã thành bông tuyết! (c. 1-6)

Cho nên, đời người khi nào đạt được ý mình hãy nên hưởng cho hết niềm vui thú. Đừng để cho chén vàng trống không trước vầng trăng. Trời sinh ra ta có tài năng ắt sẽ có chỗ dùng. Ngàn vàng tan biến hết cả rồi lại quay về! Mổ dê ,giết trâu hãy tạm vui chơi. Hãy mau họp nhau lại uống vội một lần ba trăm chén! (c. 7-12).

Hỡi thầy họ Sầm, hỡi bạn Đan Khâu! Rượu sắp mời, xin chớ dừng chén! Vì các bạn, ta sẽ ca một khúc hát. Xin mời bạn nghiêng tai nghe ta ca! Chuông trống, thức ăn ngon của bàn tiệc, châu ngọc kia cũng không đủ quý giá! Chỉ mong muốn say mãi, chẳng mong tỉnh táo! Xưa nay thánh hiền đều lặng lẽ, im ắng, chỉ có kẻ uống say tiếng tăm còn lưu giữ mãi! (c. 13-22).

Xưa kia Trần Vương mở tiệc ở Bình Lạc vui chơi đùa giỡn với mười ngàn chung rượu. Chủ nhân sao lại nói thiếu tiền? Hãy mau mua rượu chuốc mời bạn! Này là ngựa hoa năm sắc, này là áo cừu ngàn vàng! Gọi con trẻ đem đi đổi lấy rượu ngon để cùng với bạn làm tan biến mối sầu muôn thuở (c. 23-30). 

Tạm chuyển lục bát:

(thu gọn còn 26 câu lục bát)

RƯỢU SẮP MỜI.

Bạn sao chẳng thấy:

Hoàng Hà nước chảy từ trời,

Vội xuôi biển cả chẳng lui trở về!

Lại chẳng thấy:

Gương soi tóc trắng tái tê!

Sáng như tơ biếc, tuyết che xế trời!

Hãy vui được ý đời người!

Trước trăng chớ để trống vơi chén vàng!

Tài ta, dùng được trời ban,   

Quay về trở lại, ngàn vàng hết thôi!

Nấu dê trâu, giết tạm vui!

Ba trăm chén hãy uống vơi một lần.

Chàng Đan Khâu với thầy Sầm!

Chớ dừng uống rượu, bôi nâng sắp mời.

Ta ca một khúc vì người!

Vì ta xin bạn lắng người nghiêng tai!

Quý gì chuông, ngọc, thức đầy!,

Không cầu tỉnh táo, mong say mãi hoài.

Thánh hiền đều vắng xưa nay!

Chỉ người uống rượu tên rày còn kia!

Trần Vương Bình Lạc tiệc xưa,

Mười ngàn chung rượu giỡn đùa cười rân!

Nói chi tiền ít chủ nhân!

Hãy mau mua rượu bạn thân rót tràn,

Ngựa hoa, áo ấm ngàn vàng,

Gọi con đem đổi lấy hàng rượu ngon,

Cùng sầu muôn thuở tiêu mòn......


Chú thích :

- tương 將sắp sửa, nhận lấy, bên cạnh, điều ấy, đi mất, tiến lên, giúp đỡ, vâng theo, theo, nuôi dưỡng....; một âm là thương: xin mời; âm nữa là tướng: tướng soái, chỉ huy cấp cao của quân lính.
- tiến 進: tiến lên, vào, dâng lên, dâng mời một cách kính trọng, thân cận....           
- Hoàng Hà 黃河: đây là con sông lớn thứ hai bên Trung Hoa sau Trường Giang. Sông dài 5464 km đi qua chín tỉnh thành. Sông phát nguyên từ các dãy núi Côn Lôn trên cao nguyên Thanh Tạng chảy về hướng đông ra Bột Hải ở Sơn Đông. Hoàng Hà là niềm tự hào của người Hán vì nước nhiều phù sa màu vàng cung cấp chất dinh dưỡng cho các đồng bằng trồng lúa và hoa màu nó chảy qua cũng như sự mạnh mẽ chảy cuồn cuộn của nó; nhưng dòng sông này cũng gây ra nhiều thảm họa cho dân chúng nhất là những năm mưa lớn, nước dâng cao...
- bôn lưu 奔流: chảy nhanh ,chảy vội vàng...
- tu 須: hãy nên, đợi chờ, râu, thoáng chốc, gấp gáp...
- phanh 烹: nấu chín, giết mổ loài vật...
- thả 且hãy tạm, huống chi, sắp sửa, vừa này vừa kia...
- Sầm phu tử 岑 夫 子: thầy Sầm, tức Sầm Huân 岑勳, bạn thân của Lý Bạch thường được nói đến trong nhiều bài thơ của họ Lý nhưng tiểu sử và thân thế không được rõ .
- Đan Khâu sinh 丹 丘 生: tức Nguyên Đan Khâu 元丹丘, bạn thân của Lý Bạch cũng không rõ tiểu sử và thân thế.
- đãn nguyện 但 願: chỉ mong ước.
- Trần Vương 陳 王: tức Trần Tư Vương Tào Thực 曹 植, con của Tào Tháo nhà Ngụy, đời Tam Quốc là một nhà thơ lớn đã để lại nhiều thơ văn có giá trị. Trong bài "Danh đô thiên" 名都 篇 (mục viết về nơi tụ hội danh tiếng), Tào Thực đã viết: "Quy lai yến Bình Lạc, mỹ tửu đẩu thập thiên" 歸 來 宴 平 樂,美 酒 斗 十 千 (Trở về mở tiệc ở Bình Lạc ,rượu ngon mười ngàn đấu).
- cô 沽: mua bán, thô ráp, xấu xí, sơ sài. 
- thiên kim cừu 千金 裘áo làm bằng da một loài chồn bạc rất quý hiếm đáng giá ngàn vàng được cho là của Mạnh Thường Quân 孟 尝 君, tên thật là Điền Văn 田 文, nhà giàu có, làm đến chức Tể tướng nước Tề, thời Chiến Quốc thường hay giúp đỡ người khác, chiêu hiền đãi sĩ nên trong luôn có cả ngàn khách đủ các thành phần trong nhà ...


BÀI 27

TỐNG HỮU NHÂN                                                   送友人


Thanh sơn hoành bắc quách ,                                     
青山橫北郭,

Bạch thủy nhiễu đông thành .                                      白水遶東城。

Thử địa nhất vi biệt ,                                                    此地一為別    

Cô bồng vạn lý chinh .                                                 孤蓬萬里征。

Phù vân du tử ý ,                                                          浮雲遊子意,

Lạc nhật cố nhân tình                                                   落日故人情。

Huy thủ tự tư khứ ,                                                       揮手自茲去        

Tiêu tiêu ban mã minh .                                               蕭蕭班馬鳴。

 Lý Bạch                                                                      李白


Dich nghĩa:

Tiễn bạn .
Dãy núi xanh nằm ngang phía bắc thành bao bên ngoài (thành ngoại ) .Dòng nước trong trẻo chảy vòng quanh phía đông của thành (nội) .Nơi vùng đất này một lần chia tay, bạn như cây cỏ bồng trơ trọi, lẻ loi đi xa muôn dặm. Những ý nghĩ của người khách đi xa như đám mây trôi nổi. Tình cảm của bạn cũ như khi mặt trời lặn, màn đêm buông xuống!. Bạn vẫy tay, ra đi từ đây. Tiếng ngựa hí vang khắp nơi trong tiếng gió lạnh lùng vù vù thổi.

Dịch thơ:

TIỄN BẠN

Núi xanh ngang thành bắc,
Nước trong ,quanh thành đông.
Một lần rời đất ấy,
Muôn dặm trơ cỏ bồng.
Người đi: ý mây nổi,
Tình bạn: trời đêm buông.
Vẫy tay, đi từ đó,
Ngựa hí, gió lạnh lùng.

Chú thích:

- quách 郭: thành nằm bên ngoài bao quanh và che chở cho thành chính bên trong. Thành và quách thường dùng chỉ chung thành trì ngày xưa.
- bạch 白: trong trẻo, trong trắng, trong sạch, màu trắng, sáng sủa, rõ ràng... Đây kết hợp với chữ thủy và toàn câu thơ này chỉ dòng nước trong trẻo chảy quanh các hào dưới chân thành trì.
 - nhiễu 遶 : vòng quanh ,quấn quanh .Dùng như chữ 繞 (bộ mịch).
 - bồng 蓬 : cây cỏ bồng ,một loại cỏ hoang, thân nhẹ dễ bị gió cuốn đi .
- du tử 遊 子: con cái rời cha mẹ đi xa, khách đi xa, người thích rong chơi xa...
- ý 意: ý nghĩ, ý chí, dự định, sự định liệu trong suy tính...
- tư 茲: đây, nơi đây, thì, càng thêm, chiếu làm bằng cỏ...
- tiêu tiêu 蕭蕭: tiếng ngựa hí kêu the thé, tiếng gió thổi vù vù lạnh lùng. Trong "Thích khách liệt truyện" (刺客列傳), mục "Kinh Kha truyện 荊傳軻", Sử Kí 史記 của Tư Mã Thiên đã mô tả buổi chiều khi tráng sĩ Kinh Kha ra đi, qua sông Dịch: "Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn" 風蕭蕭兮易水寒, 壯士一去兮不復還 (Gió thổi vù vù chừ sông Dịch lạnh tê tái; tráng sĩ một lần ra đi chừ không trở lại).
- ban 班: khắp nơi, ban phát, loang lổ, trở về (ban sư),thứ lớp, ngay ngắn....

 
BÀI 28
 
ĐINH ĐÔ HỘ CA                                                  

Vân Dương thướng chinh khứ,                                雲陽上征去,

Lưỡng ngạn nhiêu thương cổ.                                 兩岸饒商賈。

Ngô ngưu suyễn nguyệt thì,                                     吳牛歂月時

Đà thuyền nhất hà khổ.                                            拖船一何苦!

Thủy trọc bất khả ẩm,                                              水濁不可飲,

Hồ tương bán thành thổ.                                          壺漿半成土。

Nhất xướng Đô hộ ca,                                              一唱都護歌,

Tâm tồi lệ như vũ.                                                    心摧淚如雨。

Vạn nhân tạc bàn thạch,                                           萬人繫盤石,

Vô do đạt giang hử.                                                  無由達江滸。

Quân khan thạch Mang Đăng,                                 君看石芒碭,

Yểm lệ bi thiên cổ.                                                   掩淚悲千古。

Lý Bạch                                                                   李白

Dịch nghĩa:

Bài ca "Đinh đô hộ".

Ở Vân Dương đi lên phía trên, hai bên bờ sông buôn bán đầy đủ các thứ. Con trâu đất Ngô phì phò khi có trăng! Kéo thuyền đi sao lại là việc khổ cực nhất!?: nước đục ngầu không thể nào uống được; bầu chứa nước phân nửa đã (lắng) thành bùn đất! Mỗi lần hát lên bài ca "Đinh đô hộ" thì lòng dạ buồn bã bi thương, lệ trào như mưa đổ. Hàng muôn người đục đẽo phiến đá lớn như mâm bàn không đưa đến được bờ sông. Anh hãy trông ngọn núi đá Mang Đãng và hãy ngăn lại những giọt lệ đau buồn muôn thuở!

Dịch thơ:

BÀI CA "ĐINH ĐÔ HỘ".

Vân Dương đi trên đó,
Buôn bán đông hai bờ.
Trâu Ngô trăng lên thở,

Kéo thuyền sao bơ phờ!:
Nước đục không uống được,
Nước bầu nửa bùn dơ!
Một lần ca "Đô hộ",

Lòng đau, lệ như mưa.
Muôn người đẽo thớt đá,
Không qua nổi đến bờ.
Anh nhìn núi Mang Đãng,

Ngăn lệ sầu ngàn xưa!

Chú thích:

- Đinh Đô hộ ca 丁 都 護 歌: là bài ca của những tráng đinh bị bắt đi làm những công việc nặng nhọc như chẻ đá xây thành, kéo thuyền chở đá hay quân lương, làm phu mỏ... v.v... [Từ "đô hộ": tên chức quan ngày xưa làm trưởng quan đặt tại các khu vực ở biên cương rồi mở rộng tới các phiên thuộc bị Trung Hoa xâm chiếm. Các triều đại nhà Đông Hán, nhà Đường... v.v... đi xâm lược các nước yếu hơn rồi cho thiết lập sự cai trị gọi là Đô hộ phủ, đặt chức quan Thái thú, Tiết độ sứ... v.v... cai quản, bắt dân chúng các nước ấy làm phu dịch. Năm 679, nhà Đường xâm lược nước Giao Châu của ta rồi cử Lý Diên Hựu sang cai quản đặt tên nước ta là An Nam đô hộ phủ 安 南 都 護 府. Về sau người Trung Hoa gọi nước ta là An Nam và người Pháp sau này tiếp tục gọi như thế. Các người làm bản đồ Trung Hoa xưa và nay cứ xuyên tạc nói là nước Việt Nam một thời là của họ,chứ không bao giờ nói rõ là họ đã dùng vũ lực để xâm chiếm như việc cưỡng chiếm nước Tây Tạng , Tân Cương,.. v.v... Họ xem đó là việc đã rồi và thời gian sẽ hợp pháp hóa, "nước đã đánh bùn" việc cưỡng chiếm lãnh thổ của dân tộc khác! Óc não xâm lược và mưu đồ bá quyền luôn được nhiều thế hệ cầm quyền người Trung Hoa ra sức liên tục giáo dục và bóp méo sự thật lịch sử. Họ đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức mà những bậc thánh như Khổng tử, Mạnh tử... v.v... của họ gọi là "bất liêm", "xảo ngôn  - không ngay chính, lời nói gian dối, xảo trá ]
- Vân Dương 雲 陽: tên một huyện ở Giang Tô. Ở Thiểm Tây cũng có một địa danh tên là Vân Dương.
- nhiêu thương cổ 饒 商 賈: nhiêu; đầy đủ, rộng rãi, dư thừa, khoan dung...; thương cổ: việc mua bán. Đây chỉ việc buôn bán sầm uất, tấp nập với đầy đủ các loại hàng hóa.
- Ngô ngưu 吳 牛: trâu đất Ngô quen cày lúc mặt trời nóng gay gắt nên khi nghỉ ngơi ban đêm thấy vầng trăng cứ ngỡ là mặt trời nên thở phì phò, hỗn hễn.
- hồ tương 壺 漿: nước cất trong bầu hay vò nước để uống.
- tâm tồi 心 摧: lòng dạ đau buồn, bi thương, xót xa...
- giang hử 江 滸: bờ sông, ven sông...
- Mang Đãng 芒 碭: tên núi đá dùng khai thác đá ở Đăng Sơn, Giang Tô, T.H. 

Dương Anh Sơn 

(Lần đến: Bài 29, 30, 31/ Thơ Lý Bạch)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét