Thứ Ba, 26 tháng 7, 2022

Thanh Hiên Thi Tập: Bài 65, 66, 67 và 68

 


THANH HIÊN THI TẬP: Bài 65, 66, 67 Và 68
Thầy Dương Anh Sơn 

BƯỚC ĐẦU RA LÀM QUAN NHÀ NGUYỄN Ở BẮC HÀ (1802-1804)
(Từ bài 61 đến bài 78) 

Bài 65

NGẪU HỨNG    (Kỳ nhị)                                   偶 興(二)
Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng,                         一淚天涯灑斷蓬 .
La Phù giang thượng khởi thu phong.                  羅浮江上起秋風 ,
Hoàng vân bạch thuỷ lưỡng tương chiếu,            黃雲白水兩相照 .
Cấp quản bi ti vạn bất đồng.                                急管悲絲萬不同 ,
Lục xích câu my trường dịch dịch,                      六尺拘縻長役役 .
Tứ thì phao trịch thái thông thông.                      四時拋擲太匆匆 ,
Chinh hồng ảnh lý gia hà tại?                              征鴻影裏家何在 ,
Ẩn ẩn Quỳnh vân am lưỡng phong.                     隱隱瓊雲三兩峰 .
Nguyễn Du                                                          阮 攸   
 
DỊCH NGHĨA :
Nơi chân trời xa đã phải rơi lệ vì mình như cỏ bồng phải lìa nơi chốn cũ. Trên sông La Phù gió thu bắt đầu nổi lên. Đám mây màu vàng và dòng nước màu trắng vẫn theo nhau. Tiếng sáo gấp gáp, thổi nhặt và tiếng tơ sầu buồn vạn lần không hòa cùng nhau (c.1-4). Tấm thân sáu thước bị ràng buộc làm lụng mệt nhọc mãi. Bốn mùa qua đi như thoi đưa vội vàng. Bóng chim hồng bay đi nơi xa xôi, nơi đâu là nhà? Lờ mờ, thấp thoáng là đám mây Quỳnh trên hai ba ngọn núi  (c.5-8).

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

HỨNG KHỞI TÌNH CỜ

Chân trời rơi lệ lìa bồng,
Gió thu đã nổi trên dòng La Giang.
Theo nhau nước trắng mây vàng,
Tơ sầu, sáo nhặt chẳng cùng hòa nhau.
Trói thân sáu thước mệt sao!
Bốn mùa thoi mãi đưa nhau vội là.
Bóng hồng xa lượn: đâu nhà?
Mây Quỳnh mờ nhạt hai ba đỉnh ngàn.

CHÚ THÍCH :

- sái 灑: vảy nước, tan ra, thong dong, tiêu sái.
- bồng 蓬: xem C.T bài 8.
- chiếu 照: soi chiếu, theo nhau, dựa theo, ánh sáng mặt trời.
- cấp quản 急管: tiếng sáo thổi gấp gáp rất nhặt, rất dồn dập liền nhau.
- ti 絲: tiếng tơ, tiếng dây đàn tì bà hoặc đàn tranh làm bằng dây tơ tốt.
- trường dịch dịch 長役役: vất vả, khổ nhọc luôn.
- phao trịch 拋擲: con thoi ném đi ném lại trên khung cửi, ném đi. Đây chỉ thời gian đi mau như con thoi.
- thái thông thông 太匆匆: rất là gấp gáp, vội vàng.
- chinh hồng 征鴻: cánh chim hồng bay đi xa.
- ẩn ẩn 隱隱: lờ mờ, mờ nhạt, thấp thoáng.
- Quỳnh 瓊: đây chỉ Quỳnh Côi là quê hương của nhà thơ.
 
                       
Bài 66

THANH MINH NGẪU HỨNG                           清 明 偶 興

Đông phong trú dạ động giang thành,                   東風晝夜動江城 ,
Nhân tự bi thê, thảo tự thanh.                                人自悲悽草自青 .
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,                      春日有身非少壯 ,
Thiên nhai vô tửu đối Thanh minh                        天涯無酒對清明 .
Thôn ca sơ học tang ma ngữ,                                村歌初學桑麻語 ,
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh.                       野哭時聞戰伐聲 .
Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn,                                客舍含愁已無限 ,
Mạc giao mao thảo cận giai sinh.                         莫敎茅草近階生 .
Nguyễn Du                                                            阮 攸   
 
DỊCH NGHĨA:
Suốt ngày đêm, cơn gió từ phía đông chuyển động thổi qua thành từ  bên sông. Người thì cảm thấy mình buồn bã còn cây cỏ vẫn xanh tươi. Những ngày mùa xuân, thân vẫn còn có đây nhưng chẳng còn trai trẻ. Ở chân trời xa vào tiết Thanh minh không có rượu để đối ẩm (c.1-4). Những bài ca nơi xóm thôn đã giúp ta học hỏi được tiếng nói của những người trồng đay (hoặc trồng dâu tằm). Ngoài cánh đồng vẫn còn nghe tiếng than khóc như hồi có chiến tranh. Ở nơi quán khách, lòng chất chứa nổi sầu buồn vô cùng. Đừng để cho cỏ tranh sống ở gần thềm nhà (c.5-9).

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

HỨNG TÌNH CỜ VÀO TIẾT THANH MINH

Gió đông sớm tối lay thành,
Người buồn sầu thảm, cỏ xanh mãi hoài.
Ngày xuân thân chẳng trẻ trai,
Thanh minh không rượu lai rai góc trời.
Đay, dâu học tiếng xóm người,
Ngoài đồng nghe khóc như hồi binh đao.
Chứa sầu quán khách xiết bao!
Chớ cho tranh cỏ mọc sao gần thềm!


CHÚ THÍCH:

- bi thê 悲悽: buồn da diết, buồn thảm.
- thôn ca 村歌: những bài ca nơi thôn xóm của những người làm nông.
- sơ học 初學: sự học hỏi ban đầu.
- tang ma 桑麻: dâu tằm và đay gai. Chỉ chung những người làm nghề nông.
- hàm sầu 含愁: ngậm, chất chứa nỗi sầu.
- mạc giao 莫敎: đừng cho, đừng sai khiến, chớ để cho.
- giai  階: bậc thềm ,bậc thang ,  lối dẫn đi lên
   

Bài 67

MỘ XUÂN MẠN HỨNG                                   暮 春 漫 興

Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,                        一年春色九十日,
Phao trịch xuân quang thù khả liên.                     拋擲春光殊可憐 .
Phù thế công danh khan điểu quá,                        浮世功名看鳥過 ,
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên.                          閒庭節字帶鶯遷 .
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại,                       側身不出有形外 ,
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền.                             千歲長懮未死前 .
Phù lợi vinh danh chung nhất tán,                        浮利榮名終一散 ,
Hà như cập tảo học thần tiên?                              何如及早學神仙 .
Nguyễn Du                                                           阮 攸  
 
DỊCH NGHĨA:
Mỗi năm, sắc xuân có chín mươi ngày. Cảnh xuân tươi sáng như con thoi ném đi thật tiếc thay! Công danh trôi nổi ở đời nhìn xem như đàn chim bay qua. Ở nơi sân vắng vẻ, yên tĩnh tiết trời tuần tự đổi thay theo con chim vàng anh (c.1-4). Nghiêng tấm thân vẫn không ra khỏi được hình hài. Nỗi lo lắng ngàn năm vẫn dài mãi nếu chưa chết đi. Cái danh lợi vẻ vang nhưng không chắc chắn rốt cùng sẽ tan biến thôi. Sao bằng sớm học hỏi theo đạo thần tiên (c.5-8).

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

CUỐI XUÂN HỨNG KHỞI LAN MAN

Mỗi năm chín chục ngày xuân,
Cảnh xuân đi mãi trôi dần tiếc thay!
Công danh cõi thế: chim bay,
Theo oanh sông vắng tiết thay đổi hoài.
Tấm thân sao thoát hình hài,
Mãi lo, chưa chết chuyện dài ngàn năm !
Rốt cùng danh lợi suông tan,
Sao bằng sớm học đạo thần tiên kia.

CHÚ THÍCH:
- xuân sắc 春色: cảnh sắc, sắc màu của mùa xuân.
- xuân quang 春光: cảnh xuân tươi sáng.
- phao trịch 拋擲: xem C.T bài 65.
- nhàn đình 閒庭: sân nhà vắng vẻ, yên tĩnh.
- đái oanh 帶鶯: theo con chim vàng anh (đái: theo đuổi, mang theo, dây lưng…).
- trắc thân 側身: nghiêng mình ,tỏ lòng kính trọng .
- hữu hình 有形: chỉ chung thế giới của hình hài, của vật chất. Ngược lại là “vô hình” tức thế giới của những gì phi vật chất hoặc thế giới không thể nắm bắt được như linh hồn, thần linh v.v…
- phù lợi 浮利: những lợi ích mà con người ra sức tìm kiếm, chiếm đoạt chỉ là những giá trị không chắc chắn và hão huyền mà người đời thường gọi là danh lợi suông.
- thần tiên 神仙: thế giới của những người thoát khỏi những ràng buộc vật chất để có được sự an lạc, thong dong.
 
                       
Bài 68

THANH QUYẾT GIANG VÃN DIỂU                清 決 江 晚 眺

Phù kiều tận xứ xuất bình điền,                              浮橋盡處出平田 ,
Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền.                            歷歷青山在眼前 .
Cổ kính tiều quy minh nguyệt đảm,                        古徑樵歸明月擔 ,
Triều môn ngư tống tịch đương thuyền.                  潮門魚送夕陽船 .
Mang mang viễn thuỷ tam xuân thụ,                       茫茫遠水三春樹 ,
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên.                           落落人家兩岸煙 .
Cực mục hương quan tại hà xứ?                             極目鄉關在何處 ,
Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên.                        征鴻數點白雲邊 .
Nguyễn Du                                                              阮 攸   

DỊCH NGHĨA:
Hết cây cầu nổi là đến cánh đồng bằng phẳng. Khắp mọi nơi trước mắt là dãy núi xanh. Trên con đường mòn cũ, ông tiều gánh củi về dưới ánh trăng sáng. Lúc chiều tối cửa sông nước dâng lên, ông chài đẩy thuyền xuống nước (c.1-4). Phía xa của con sông, lờ mờ ba cây lớn trong mùa xuân. Khói lên từ nhà dân lớp lớp đông đúc ở hai bên bờ.Giương mắt cố nhìn về quê hương, ở chốn nào đây? Ven tầng mây trắng chỉ thấy vài chấm nhỏ của những con chim hồng bay xa (c.5-8).

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

NGẮM CẢNH CHIỀU TRÊN SÔNG THANH QUYẾT

Hết cầu nổi đến đồng bằng,
Khắp nơi trước mắt xanh giăng non ngàn.
Tiều về đường cũ dưới trăng,
Ông chài chiều xuống triều dâng đẩy xuồng.
Sông xa mờ nhạt cây xuân,
Khói lên lớp lớp nhà dân hai bờ.
Cố nhìn quê cũ đâu giờ?
Cánh hồng mây trắng lượn lờ vài con . 

CHÚ THÍCH:
- Thanh Quyết giang 清決江: tên dòng sông Thanh Quyết ở huyện Gia Viễn, Ninh Bình là một nhánh của sông Đáy (sông Gián Khẩu) giữa Ninh Bình và Hà Nam, Bắc Hà.
- diểu   眺: trông ngắm từ xa, lườm mắt.
- bình điền 平田: ruộng vườn ở chỗ bằng phẳng.
- lịch lịch 歷歷: (lịch: khắp nơi, vượt qua, trải qua, chọn lựa) tiếng loài thú kêu, rõ ràng, nơi nơi.
- đảm 擔: gánh vác, nhận lấy, mang vác.
- triều môn 潮門: nước dâng lên ở sông hoặc cửa biển.
- mang mang 茫茫: xa xôi, mênh mông, mờ mờ, mịt mù.
- lạc lạc 落落: sắp xếp, xếp lớp, không bừa bộn, chững chạc.
- cực mục 極目: giương mắt lớn để cố nhìn.

(Lần đến: Bài 69, 70, 71 và 72)

Dương Anh Sơn 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét