THƠ LÝ BẠCH: Bài 57, 58 và 59
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 57
CỔ PHONG KỲ THẬP 古風 其十
Tề hữu thích thảng sinh, 齊有倜儻生 ,
Lỗ Liên đặc cao diệu 魯連特高妙。
Minh nguyệt xuất hải để, 明月出海底 ,
Nhất triêu khai quang diêu. 一 朝開光曜。
Khước Tần chấn anh thanh, 卻秦振英聲,
Hậu thế ngưỡng mạt chiếu. 後世仰末照。
Ý khinh thiên kim tăng, 意輕千金贈,
Cố hướng Bình Nguyên tiếu. 顧向平原笑.
Ngô diệc đam đãng nhân, 吾亦澹蕩人,
Phất y khả đồng điệu. 拂衣可同調 。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong bài thứ mười.
Có người nước Tề sống thong dong, không chịu ràng buộc - Chỉ riêng Lỗ Liên là người tài giỏi lại cao khiết hơn hẳn! - Trăng sáng nhô lên từ đáy biển - Một sớm nao đã bừng sáng lên! - Việc dẹp được nhà Tần gây tiếng vang tốt đẹp - Chiếu soi mãi cho người đời sau! - Lòng coi nhẹ ngàn vàng được ban tặng - Quay đầu lại cười ngạo Bình Nguyên Quân! Ta cũng là người đơn giản, chuộng sự yên tĩnh -Lại là người đã "giũ áo" nên cũng có thể hòa hợp cùng nhau!
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG (Bài thứ mười )
Người Tề sống rất thong dong,
Lỗ Liên hơn hẳn, tài ông cao vời!
Trăng lên đáy giếng sáng ngời,
Sớm nao lấp lánh ánh trời mở bung!
Dẹp Tần, tiếng tốt vang lừng,
Chiếu soi ngưỡng mộ khắp cùng đời sau.
Ngàn vàng ban tặng nhẹ khào!
Quay đầu nhìn lại cười ào Bình Nguyên.
Ta mê giản dị, bình yên,
Đã từng giũ áo, bên nhau hòa cùng.
Chú thích:
- Tề hữu 齊有: cách gọi thân mật với người bạn Tề. Nước Tề là một trong những nước mạnh thời Chiến quốc (xem CT bài 55 trên) là một công quốc chư hầu được nhà Chu ban cho Khương Thượng tức Khương Tử Nha khoảng thế kỷ 11 TCN (khoảng 1046 TTN) vì có công bảo vệ nhà Chu được gọi là Khương Tề .Năm 385 TCN, Điền Hòa ,giữ quyền lực trong triều tiếm quyền xưng là Tề vương (còn được gọi là Điền Tề) buộc Chu An vương phải công nhận. Năm 221, Tề là nước cuối cùng trong Lục Hiệp bị nhà Tần diệt tiến tới việc thống nhất Trung Hoa
- thích thảng 倜儻: thong dong, tự do, không chịu ràng buộc....
- Lỗ Liên 魯連: tức Lỗ Trọng Liên, một nhân vật thời Chiến quốc người nước Tề được Lý Bạch đề cao vì phong cách cao thượng và có công trong việc đánh Tần (xem: Tặng tòng huynh Tương Dương thiếu phủ hạo - Lý Bạch). Ông sống ẩn dật không thích ra làm quan .Khi có việc sang Triệu gặp lúc quân Tần đang vây hãm thành rất gấp. Sứ vua Ngụy là Tôn Viên Diễn đến Triệu bàn việc tôn vua Tần làm hoàng đế để hoãn binh.Trọng Liên tìm gặp sứ nước Ngụy cương quyết chống lại việc Tần xưng đế và tham gia với các tướng Triệu đẩy lui quân Tần ra xa hơn năm mươi dặm, buộc quân Tần phải rút về nước .Bình Nguyên quân muốn tặng ông ngàn lượng vàng. Ông khẳng khái từ chối nói rằng cái quý nơi kẻ sĩ là khi gặp sự an nguy cùng nhau chống lại chứ không phải nhận quà biếu như hạng con buôn (xem Đông Châu Liệt Quốc)
- đặc 特: chỉ, hơn hẳn, đặc biệt, riêng, đôi lứa...
- anh 英: tốt đẹp, tinh anh, loài hoa đẹp, vua các loài hoa....
- mạt chiếu 末照: chiếu soi khắp cùng, chiếu soi mãi...
- Bình Nguyên 平原: tức Bình Nguyên Quân tên thật là Triệu Thắng 赵胜, là Tướng quốc nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Hoa, dưới thời Triệu Huệ Văn vương và Triệu Hiếu Thành vương. Ông là một tôn thất có quyền lực là một trong bốn công tử thời Chiến Quốc: Mạnh Thường Quân Điền Văn nước Tề, Tín Lăng Quân Ngụy Vô Kỵ nước Ngụy, Xuân Thân Quân Hoàng Yết nước Sở và Bình Nguyên Quân Triệu Thắng nước Triệu.
- đạm đãng nhân 澹蕩人: người chuộng sự yên tĩnh, lặng lẽ lại ưa sự tự do, không thích ràng buộc...
- phất y 拂衣: giũ áo, hành vi từ bỏ danh lợi để sống tự do không bị ràng buộc...
- đồng điệu 同調: cách nghĩ ,cách sống giống nha , tính tình lòng dạ gần gũi nhau, âm thanh hòa điệu cùng nhau... v.v...
Bài 58
CỔ PHONG KỲ THẬP TƯ 古風 其十四
Hồ quan nhiêu phong sa, 胡關饒風沙,
Tiêu sách cánh chung cổ. 蕭索竟終古。
Mộc lạc thu thảo hoàng, 木落秋草黃,
Đăng cao vọng Nhung Lỗ. 登高望戎虜。
Hoang thành không đại mạc, 荒城空大漠,
Biên ấp vô di đổ. 邊邑無遺堵。
Bạch cốt hoành thiên sương, 白骨橫千霜,
Tha nga tế trăn mãng. 嵯峨蔽榛莽。
Tá vấn thùy lăng ngược, 借問誰凌虐,
Thiên kiêu độc uy vũ. 天驕毒威武。
Hách nô ngã thánh hoàng, 赫怒我聖皇,
Lao sư sự bề cổ. 勞師事鼙鼓。
Dương hòa biến sát khí, 陽和變殺氣,
Phát tốt tao trung thổ. 發卒騷中土。
Tam thập lục vạn nhân, 三十六萬人,
Ai ai lệ như vũ. 哀哀淚如雨。
Thả bi tựu hành dịch, 且悲就行 役,
An đắc doanh nông phố, 安得營農圃。
Bất kiến chinh thú nhi, 不見征戍兒,
Khởi tri quan san khổ. 豈知關山苦。
Lý Mục kim bất tai, 李牧今不在,
Biên nhân tư sài hổ 邊人飼 豺虎 。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong bài thứ mười bốn.
Ải Hồ rất nhiều gió cát - Cảnh vật buồn bã vắng lặng suốt từ xưa - Cây cối tàn rụng cỏ thu úa vàng - Leo lên lầu cao dõi nhìn bọn Nhung, Lỗ (c.1-4) - Thành trì hoang vắng ở vùng sa mạc rộng lớn - Các xóm ấp nơi biên cương không còn bức tường nào - Xương trắng ngang ngửa với hàng ngàn giọt sương giăng! - Dáng núi nhấp nhô cao ngất ngưỡng che khuất những bụi cây rậm rạp (c.5-8) - Thử hỏi ai là kẻ xâm lấn bạo ngược?! - Đó là bọn giặc trời tàn độc, kiêu ngạo mạnh mẽ đáng nể sợ! - Bậc thánh thượng của ta giận dữ tơi bời! - Việc này khiến đông đảo quân binh phải vất vả, nhọc nhằn theo tiếng trống thúc quân (c.9-12) - Đang êm ấm tươi vui trong hòa bình biến ra bầu khí giết chóc - Bọn giặc khởi binh quấy phá vùng trung thổ - Ba mươi sáu vạn người (phải lên đường) - Buồn đau, ngậm ngùi nước mắt như mưa! (c.13-16) - Hãy theo lòng sầu bi của lính thú trong chuyến đi xa ngoài biên ải!! - Có được bình yên đâu để mưu cầu việc trồng trọt rau quả của nghề nông! - Có thấy chăng những người lính thú trẻ tuổi đi đánh giặc ở xa? - Há biết chăng những gian khổ nơi núi non biên ải của họ?! (c.17-20) - Tướng quân Lý Mục nay không còn nữa - Những người ngoài biên ải làm mồi nuôi ăn cho bọn sói hùm! (c.21-22)
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG BÀI THỨ MƯỜÌ BỐN
Nhiều thay gió cát ải Hồ,
Cảnh buồn vắng vẻ, xác xơ điêu tàn!
Cỏ cây thu rụng úa vàng,
Lên cao trông ngóng giặc Nhung, Lỗ thù.
Thành trơ, sa mạc hoang vu,
Xóm làng biên giới còn chi vách tường!
Giăng ngang xương trắng ngàn sương,
Khuất che cây rậm, vươn cao non ngàn.
Hỏi xem ai kẻ bạo tàn?!
Hiểm sâu, thế mạnh ngang nhiên giặc trời!
Vua ta giận dữ tơi bời!
Nhọc nhằn trống trận thúc người chiến binh.
Đằng đằng sát khí trời yên,
Đem quân gây loạn trung nguyên rối bời!
Ba mươi sáu vạn con người,
Lệ như mưa trút tuôn rơi sầu buồn!
Hãy theo lính thú xót thương,
Đâu yên lo chuyện rau vườn nghề nông!
Đi xa trai trẻ thấy không,
Biết đâu cửa ải núi non nhọc nhằn!
Ngày nay Lý Mục còn chăng?!
Người nơi biên ải: mồi ăn sói hùm!
Chú thích:
- Hồ quan 胡關: cửa ải biên giới phía tây Trung Hoa ngày xưa để ngăn cản sự xâm nhập của người Hồ và chỉ chung các bộ tộc phía tây thường xuyên vào trung nguyên đánh phá thành trì người Hán.
- nhiêu 饒: quá nhiều, dư thừa, đầy đủ, dồi dào, khoan dung, tha thứ, rộng lòng...
- tiêu sách 蕭索: cảnh vật buồn hiu hắt, vắng lặng, cây cỏ úa tàn...
- cánh 饒: suốt (cách nhật: suốt ngày), cuối cùng, xong xuôi, trọn, truy cứu...
- chung cổ 終古: suốt từ xưa đến nay, mãi mãi còn, không dứt....
- Nhung Lỗ 戎虜: cách gọi miệt thị của người Hán nước Trung Hoa xưa đối với các bộ tộc ở phía tây (cả phía nam như nước Việt chúng ta trước kia dẫu chẳng hề muốn cướp phá đất đai của họ mà ngược lại...) thường vào trung nguyên đánh phá. Người Hán xem họ là dân man di nhung địch, thiếu văn minh,mọi rợ (lỗ: bọn giặc,kẻ thù địch, mọi rợ, tù binh binh bị bắt... (Lý Thường Kiệt 李常傑: "Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?" 如何逆虜來侵 Cớ sao lũ giặc ngạo ngược bây lại sang xâm phạm? (Nam quốc sơn hà 南國山河).
- vô di đổ 無遺堵: di: để lại, mất, bỏ lại, thất lạc, đánh rơi...; đổ: bức tường, ăn trở,lấp kín. v.v... Không còn để lại vách tường nào!
- tha nga 嵯峨: cao chót vót, cao ngất ngưỡng, dáng núi nhấp nhô...
- trăn mãng 榛莽: bụi cây gai góc um tùm, rậm rạp, vướng vít...
- lăng ngược 凌虐: kẻ xâm phạm lại bạo ngược tàn ác...
- hách nộ 赫怒: nổi giận dữ dội...
- sư 師: làm thầy, binh đoàn, quân binh...
- bề cổ 鼙鼓: trống nhỏ để vừa cưỡi ngựa, vừa đánh trống thúc quân.
- phát tốt 發卒: sai phái quân lính, khởi binh, gửi quân đi...
- tao 騷: quấy phá, quấy nhiễu, uất ức, lo lắng, tao nhã, thanh tao...
- ai ai 哀哀: xót thương, buồn sầu, ngậm ngùi..
- tựu 就: theo , đi theo , nên, nay là...
- hành dịch 行 役: làm lính thú đi trấn giữ cửa ải biên giới, làm lao dịch theo sự sai khiến, làm việc quân binh...
- doanh 營: mưu cầu, lo lắng cho công việc, nơi đóng quân, xây dựng, cai quản...
- nông phố 農圃: trồng trọt rau quả
- thú nhi 戍兒: người lính thú đi ra biên cương còn trai trẻ, còn nhỏ tuổi....
- Lý Mục 李牧: 290 – 229 TCN là một danh tướng của nước Triệu trong thời Chiến Quốc. Lý Mục trấn thủ tại vùng biên giới ở Quận Đại, sau này có tên là Nhạn Môn Quan, để chống lại quân Hung Nô thường quấy phá phía tây. Nhờ chiến thuật "vườn không nhà trống" khi phe Hung Nô tấn công, vùng biên cương trống trơn đã làm cho quân địch hao tổn và nản lòng. Trong khi đó ông huấn luyện quân lính giỏi bắn cung tên,cưỡi ngựa và thiện chiến chờ dịp đánh tan đại quân Thiền Vu khiến bọn họ phải nể sợ kiêng dè. Ông cũng giúp nhà Triệu nhiều lần đánh tan quân Tần . Về sau ông bị người trong triều ly gián khiến vua cho bắt ông đem xử tử....
- tự 飼: làm mồi cho ăn, chăn nuôi...
Bài 59
CỔ PHONG KỲ TAM THẬP NGŨ 古風 其三十五
Xú nữ lai hiệu tần, 丑女來效顰,
Hoàn gia kinh tứ lân. 還家驚四鄰。
Thọ lăng thất bổn bộ, 壽陵失本步,
Tiếu sát Hàm Đan nhân. 笑殺邯鄲人。
Nhất khúc phỉ nhiên tử, 一曲斐然子,
Điêu trùng táng thiên chân. 鵰蟲喪天真。
Cức thứ tạo mộc hầu, 棘刺造沐猴,
Tam niên phí tinh thần. 三年費精神。
Công thành vô sở dụng, 功成無所用,
Sở sở thả hoa thân. 楚楚且華身。
Đại nhã tư Văn vương, 大雅思文王,
Tung thanh cửu băng luân. 頌聲久崩淪。
An đắc Dĩnh trung chất, 安得郢中質,
Nhất huy thành phủ cân. 一揮成斧斤。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong bài thứ ba mươi lăm.
Cô gái nhan sắc xấu xí trở về nhà học đòi cách nhăn mặt chau mày khiến hàng xóm kinh hãi! Người Thọ Lăng (giống như thế), quên mất bước đi có từ trước khiến cho người (kinh đô) Hàm Đan cười chết bỏ! (c.1-4) - Một khúc hát của kẻ văn hoa, tao nhã đem chạm khắc đục giũa, tô chuốc chẳng ra sao sẽ làm mất đi cái bản tính tự nhiên! Những khó khăn gai góc để gột rửa (thiên chân) lại thành ra con khỉ, uổng phí tinh thần ba năm suy tính! (c.5-8) - Công lao để có thành quả ấy không có chỗ dùng! Chuốc bao khổ sở để sửa soạn cho thân hình đẹp đẽ như khúc nhạc "Đại nhã nhớ Văn vương" với âm thanh ca ngợi lâu ngày cũng sẽ chìm đắm, tàn phai mất đi! (c.9-12) - Sao được phẩm chất trung thực của người đất Dĩnh; Còn đây (như "xú nữ" hay chàng trai Thọ Lăng) , một lần xoay trở thành ra chuyện búa rìu (của sự chê trách) (c.13-14)
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG BÀI THỨ BA MƯƠI LĂM
Học đòi gái xấu nhăn mày,
Bốn bên hàng xóm hãi thay về nhà!
Thọ Lăng bước cũ quên đà,
Người Hàm Đan nhạo chết sa nụ cười!
Bài ca văn vẻ đẹp vời,
Chạm tô khắc chuốt tính người mất toi!
Khổ công lại hóa khỉ thôi!
Tinh thần hao phí uổng đời ba năm.
Việc thành dùng có được chăng!
Thân mình làm đẹp nhọc nhằn chẳng sao!
Văn vương Đại nhã nhớ nao!
Ngợi ca mãi sẽ về lâu phai tàn.
Được như người Dĩnh lòng thành,
Hơn bao chê trách một lần ra tay!
Chú thích:
- hiệu tần 效顰: bắt chước, học đòi nhăn mày nhíu mặt. Đây là câu chuyện trích từ sách Trang Tử (mục Thiên Vấn) kể việc cô gái Đông Thi nhan sắc rất xấu thấy Tây Thi xinh đẹp nhăn mày nhíu mặt do đau ở ngực lại càng xinh đẹp hơn nên cũng học đòi bắt chước không biết rằng mình vốn xấu xí khiến cho người trong làng sợ hãi, kinh dị phải tránh đi không dám ra đường. Thành ngữ Trung Hoa có câu: Đông Thi hiệu tần (東施效顰), Đông gia hiệu tần (東家效顰) hay Xú nữ hiệu tần (醜女效顰) để chê cười những người không lượng được khả năng của bản thân thường học đòi, bắt chước nhưng chẳng đạt kết quả,có khi lại tệ hơn. Còn Tây Thi 西施, còn gọi là Tây Tử 西子, là một trong "Tứ đại mỹ nhân" 四大美人; đây là cụm từ để tả 4 người đẹp nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa gồm: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quý phi. Sắc đẹp của họ được mô tả theo thứ tự là: Tây Thi "Trầm ngư" (沉鱼: cá thấy người đẹp phải chìm sâu dưới nước); Vương Chiêu Quân "Lạc nhạn" (雁 落: chim nhạn thấy dáng mỹ nhân phải sa xuống đất); Điêu Thuyền "Bế nguyệt" (閉月: mặt trăng phải giấu mình vì sự xuất hiện của giai nhân) và Dương Quý phi "Tu hoa" (羞花: mỹ nhân khiến hoa cũng phải xấu hổ)..... Tây Thi sống trong thời kỳ Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Hoa. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc "cá lặn" được Phạm Lãi tuyển chọn từ nước Việt đem về luyện tập cầm kỳ thi họa và nhiều tài năng khác để dâng cho vua Ngô là Phù Sai khiến vua mê đắm.Khi nước Ngô suy yếu do vua mãi mê với sắc đẹp Tây Thi,Việt vương Câu Tiễn đã khởi binh giành lại đất nước khiến nhà Ngô diệt vong, trả được thù xưa.....
- Thọ Lăng 壽陵: chuyện kể có chàng du tử, thích rong chơi ở làng Thọ Lăng nghe nói người ở kinh đô Hàm Đan của nước Triệu đi đứng rất tao nhã nên tìm đến học đòi cách đi đứng, lâu ngày quên đi cách đi như hồi còn ở Thọ Lăng khiến người ở kinh đô Hàm Đan cười chế nhạo không biết giữ cái riêng của mình!
- phỉ nhiên tử 斐然子: người có dáng vẻ văn hoa nhã nhặn...
- điêu 鵰: chạm khắc, điêu khắc, mãi giũa, chim điêu...
- trùng 蟲: chỉ chung các loài sâu bọ hay loài vật (vd: tiểu rùng như sâu, kiến, ve, bướm...; đại trùng như cọp,beo...); cũng dùng có ý khinh thường, việc không ra sao, chẳng đáng bận tâm...
- thiên chân 天真: bản tính tự nhiên,bản tính đích thật của một con người...
- cức thứ 棘刺: gai nhọn đâm vào, chỉ việc khó khăn gian khổ...
- tạo mộc 造沐: gột rửa để làm ra một cái khác, tước bỏ cái cũ để tạo nên cái khác....
- sở sở 楚楚: khổ sở, đau đớn, cực khổ, chua cay...
- thả 且: sửa soạn, sắp sửa, mà lại, vả chăng, hãy thế, vội vàng, vừa này vừa kia...
- hoa thân 華身: thân thể xinh đẹp, vẻ đẹp bên ngoài của thân mình...
- Đại nhã 大雅: xem chú thích bài 52 kỳ tháng 12/2017 ở trên.
- Văn vương (tức Chu Văn vương) 周文王: tên là Cơ Xương 姬昌, đứng đầu một bộ tộc họ Chu vào cuối đời nhà Thương sang đời nhà Ân đã đứng lên chống lại sự cai trị khắc nghiệt của nhà Thương. Ông chưa kịp hoàn thành tâm nguyện thì mất. Con là Cơ Phát 姬發 kế nghiệp diệt được vua Trụ tàn ác của nhà Ân, lên ngôi hiệu là Chu Vũ vương 周武王 (1046-1043 TCN), truy tôn hiệu của cha mình là Chu Văn vương. Ông xây dựng nên nhà Chu thịnh trị rực rỡ suốt 867 năm bên Trung Hoa được Khổng Tử khen ngợi như là một chuẩn mực trong cách cai trị như biết trọng hiền tài và quí dân tình không kém các vua hiền như Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn.... trong huyền sử Trung Hoa. Đại nhã là những khúc hát, những lời thơ thanh nhã có từ các đời trước nhà Chu tâp hợp trong Kinh Thi và được Văn vương ưa chuộng nhằm giáo dục bề tôi và dân chúng về cách sống chính đính thanh nhã....
- băng luân 崩淪: vỡ nát và chìm đắm, sự phai tàn hủy hoại, diệt vong, đổ nát...
- Dĩnh 郢: khi Sở Vũ vương Hùng Thông(704 TCN) xưng tước vương ( bất chấp nhà Chu phản đối ) qua đời. Con là Hùng Xi 熊貲nối ngôi hiệu là Sở Văn vương 楚文王 (689-675 TCN) cho dời đô về đất Dĩnh,một thành trì phía tây nam Trung Hoa và mở rộng thế lực sang trung nguyên.
- trung chất 中質: bản chất trung thực, chân thành, tính người trung thực... An đắc Dĩnh trung chất 安得郢中質: có lẽ Lý Bạch muốn nói đến Khuất Nguyên 屈原 (340 - 278 TCN), tên thực Bình 平, tự Nguyên, lại có hiệu là Linh Quân 霛均, làm quan Tả đồ ở Dĩnh Đô, kinh đô nước Sở (nay thuộc Hồ Bắc /Trung Hoa). Ông can gián Sở Hoài vương không nên đi qua Tần nhưng vua không nghe nên bị Tần giam giữ và chết bên Tần. Ông là người học rộng, giỏi thơ phú nổi tiếng với tập Ly Tao, am hiểu chính trị, tính tình trung thực, thẳng thắng nên bị nhiều người trong triều ghen ghét pha khiến Sở Tương vương đày ông đi Giang Nam. Trên đường đi,ông buồn cho nhân tình thế sự, làm bài Hoài Sa phú rồi tự trầm trên dòng Mịch La.....
- huy 揮: vẫy tay, ra tay, xoay trở ,lay động, mở rộng, tan ra...
- phủ cân 斧斤: búa rìu, sự chê trách, sự trừng phạt, sự đàm tiếu, phê phán...
(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH bài 60, 61 và 62)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét