Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2022

Thơ Đỗ Phủ: Bài 42, 43 và 44

 


THƠ ĐỖ PHỦ: Bài 42, 43 và 44
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 42

THIÊN MẠT HOÀI LÝ BẠCH                                 

Lương phong khởi thiên mạt,                                        
Quân tử ý như hà?                                                          意如
Hồng nhan kỷ thời đáo,                                                 
Giang hồ thu thuỷ đa.                                                    
Văn chương tăng mệnh đạt                                           
Si mị hỉ nhân qua.                                                          
Ưng cộng oan hồn ngữ,                                                 
Ðầu thi tặng Mịch La.                                                    
Đỗ Phủ (năm 759)                                                        杜 甫     

Dịch nghĩa:

Lúc gió mát lạnh nổi lên ở cuối trời - Những suy nghĩ của bạn (Lý Bạch) sẽ như thế nào?- Bao giờ chim nhạn hồng sẽ đến nơi? - Nước mùa thu chảy rất nhiều vào  các sông hồ - Văn chương vẫn ghét ghen người có mạng hiển đạt - Loài yêu quái từ gỗ đá cũng vui mừng chào đón mong ngóng người đi qua! - Các oan hồn đã cùng nhau đáp lời - Cho nên, hãy ném thơ xuống sông Mịch La để tặng (những oan hồn như Khuất Nguyên!)


Tạm chuyển lục bát:


CUỐI TRỜI NHỚ LÝ BẠCH.

Cuối trời mát lạnh gió lên,
Ý người quân tử phải nên thế nào?
Nhạn hồng sẽ đến khi nao?
Mùa thu nhiều nước đổ vào hồ sông.
Văn chương ghét mạng suốt thông!
Người qua, yêu quái những mong vui mừng!
Đáp lời cùng với oan hồn,
Mịch La thơ  tặng ném sông gửi  hồn!

Chú thích:
- lương phong  : gió mát lạnh...
- thiên mạt  : nơi cùng trời, nơi cuối trời...
- quân tử  : kẻ sĩ, người có tài đức, tiếng tôn xưng người đáng kính trọng như "tiên sinh", hoặc cách gọi  bạn bè thân thiết...
- ý như hà 意 如 : những ý nghĩ, ý tưởng sẽ như thế nào...
- tăng mệnh đạt : ghét, không thích kẻ có mạng hiển đạt hay cuộc đời thông suốt...
- si mị  : loài yêu quái thường ẩn mình nơi gỗ đá...
- ưng cộng  : cùng nhau đáp trả, chung nhau đáp ứng, hưởng ứng...
- đầu : ném xuống, quẳng vào.... 

*** Đỗ Phủ nhớ bạn và nhắn gửi Lý Bạch có đi ngang sông Mịch La (một nhánh của Tương Giang, T.H) hãy ném thơ để gửi tặng Khuất Nguyên đã trầm mình nơi đây.... (Theo Sử Ký, phần Khuất Nguyên Giả Sinh liệt truyện 史记 屈原 贾生列传, Khuất Nguyên 屈原 /340-278 TCN có tên thực là Bình 平, tự là Linh Quân 霛 均 người nước Sở, sống trong thời Chiến Quốc bên Trung Hoa. Linh Quân là người có tài văn chương, hiểu rông nhiều mặt làm quan Tả Đồ cho Sở Hoài vương. Về sau, nhiều quan lại trong triều ghen tỵ  và tìm cách loại trừ ông bằng cách dèm pha,nói xấu với Sở Hoài vương. Ông buồn sầu viết Ly Tao để nói lên nỗi u uất khi bị nhà vua ruồng bỏ. Qua đời Sở Tương vương, ông bị triều đình đày đi Giang Nam, phía nam sông Dương Tử. Ông đi đày trong tâm trạng não nề thất chí rồi khi đi qua sông Mịch La vào ngày mồng 5 tháng 5, một nhánh của sông Tương, ông đã gieo người tự trầm ở đây.... Ngoài Ly Tao 离骚, ông để lại những tác phẩm quan trọng khác như Sở Từ 楚辭Thiên Vấn 天问, Cửu Ca 九歌 ,bài Phú Hoài Sa 懷沙賦. v.v...)    

Bài 43

DÃ VỌNG (Kỳ nhất)                                                      ( 其 一)

Thanh thu vọng bắc cực,                                                望北極
Điều đệ khởi tằng âm.                                                    迢遞
Viễn thuỷ kiêm thiên tịnh,                                             
Cô thành ẩn vụ thâm.                                                     
Diệp hi phong cánh lạc,                                                 
Sơn quýnh nhật sơ trầm.                                                迥 .
Độc hạc quy hà vãn?                                                     
Hôn nha dĩ mãn lâm.                                                     滿
Đỗ Phủ (năm 759)                                                        杜 甫   

Dịch nghĩa:  

Mùa thu trong suốt dõi nhìn về cõi vô cùng phía bắc - Nơi chốn xa xôi, nổi lên bao lớp bóng râm âm u - Dòng sông xa xa hòa cùng với bầu trời trong  trẻo - Thành lũy trơ trọi nấp trong làn sương dày dặc - Những chiếc lá lác đác, ít ỏi bị gió làm cho rụng thêm - Mặt trời vừa lặn, núi non xa xôi vắng vẻ - Con chim hạc lẻ loi về nơi đâu khi chiều buông? - Đám quạ lúc hoàng hôn dừng nghỉ khắp cánh rừng.


Tạm chuyển lục bát:

NGẮM NHÌN CÁNH ĐỒNG XA XA  (Bài 1)

Ngắm thu cực bắc trong vời,
Nổi lên bao lớp xa xôi mịt mùng.
Sông xa, trời biếc hòa cùng,
Thành trì trơ trọi khuất trong sương dày.
Lá thưa rơi rụng gió lay,
Trời vừa lặn xuống, non rày vắng tăm.
Về đâu hạc lẻ ngày tàn?
Khắp rừng quạ nghỉ, hoàng hôn đến rồi.

Chú thích:
- bắc cực 北 極: phía bắc xa xôi, chỉ nơi xa cùng cực, cũng dùng để chỉ triều đình...
- điều đệ (thiều đệ) 迢 遞: xa xôi, không biết tin tức nhau...
- tằng âm  : nhiều lớp âm u, mờ mịt.
- viễn thủy   : con sông ở xa. Chữ thủy chỉ nước hay chất lỏng  nhưng cũng chỉ con sông hay dòng nước, ao, suối, khe, hồ....
- thiên tịnh:  : bầu trời trong vắt, trong suốt, trong trẻo...
- diệp hi  : lá cây lác đác, thưa thớt, ít ỏi....
- quýnh 迥: xa xôi, vắng vẻ, xa vắng...
- dĩ : dừng lại, thôi, nghỉ ngơi...  

Bài 44

DÃ VỌNG (Kỳ nhị)                                                (其 二)

Tây Sơn bạch tuyết Tam Thành thú,                      西
Nam phố thanh giang Vạn Lý kiều.                       
Hải nội phong trần chư đệ cách,                            
Thiên nhai thế lệ nhất thân diệu.                           
Duy tướng trì mộ cung đa bệnh,                            
Vị hữu quyên ai đáp thánh triều.                           
Khóa mã xuất giao thì cực mục,                            
Bất kham nhân sự nhật tiêu điều.                           
Đỗ Phủ (năm 761)                                                 杜 甫   

Dịch nghĩa:    

Đồn canh phòng Tam Thành ở núi phía tây có tuyết trắng - Cầu Vạn Lý với lòng sông nước trong trẻo ở cửa sông phía nam - Nơi chốn gió bụi ,các em ở cách xa.

- Ở góc trời, một thân xa xôi ứa lệ - Chỉ có tuổi già muộn màng bày ra nhiều thứ bệnh!  

- Chưa có chút gì nhỏ nhoi nào báo đáp ơn vua - Cưỡi ngựa ra ngoài thànhnhướng mắt nhìn ra xa - Không chịu nổi trước chuyện đời ngày càng héo hắt, xơ xác!                                                           

Tạm chuyển lục bát:


NGẮM NHÌN CÁNH ĐỒNG XA XA  (Bài 2)  

Núi Tây tuyết trắng thành Tam,

Cửa sông cầu Vạn phía nam trong ngần.

Các em cách chốn phong trần,

Xa xôi lệ ứa một thân góc trời.

Bệnh bày già muộn lắm thôi,

Ơn vua chưa trả nhỏ nhoi chút lòng.

Ra thành cưỡi ngựa xa trông,

Chẳng kham bao nỗi héo hon chuyện đời! 


Chú thích:

Tây Sơn 西: núi nằm phía tây Thành Đô trong đó có ngọn Tuyết Lĩnh quanh năm tuyết phủ trắng xóa.

- thành thú : thành xây để quân lính trú phòng canh gác (thú) mà ta hay gọi là đồn. Tam Thành là thành trì nằm giữa hai châu là Tùng Châu và Duy Châu ở Tứ Xuyên, TH. Tam Thành hay thành Tam là nơi đồn trú trọng yếu để ngăn chặn quân Thổ Phồn thường tràn qua biên giới quấy phá.

- phố : bến sông, cửa sông, ven sông, ngạch sông chảy ra biển.

- Vạn Lý Kiều : cầu ở phía nam Thành Đô, TH. Nước Thục đời Tam Quốc có Phí Y 費禕 đi sứ nước Ngô được quân sư Gia Cát Lượng đưa tiễn. Phí Y đã than rằng: "Vạn lý chi hành, thủy ư thử kiều 萬里之行,始於此橋" (nghĩa là: Hành trình vạn dặm bắt đầu ở cầu này). Nhân đó có tên là Vạn Lý Kiều.

- hải nội : phía bên trong, trong nước...

- thế lệ  nước mắt, nước mũi.

- diệu : (hay là dao). xa xôi.

- trì mộ : tuổi già muộn màng.

- cung  cung cấp, tặng, lời khai, bày ra, xếp đặt...

- tương : sẽ, sắp, đem, đưa, tiến lên, với, và, sẽ.....

- quyên ai 涓埃: nhỏ nhoi, nhỏ nhặt, hạt bụi nhỏ, rất nhỏ...

- khóa mã : cưỡi ngựa...

- giao : chỗ gần thành, bên ngoài thành.

- cực mục : nhướng mắt nhìn xa xa, căng mắt để nhìn cho rõ...

- tiêu điều : xơ xác, héo hon, hiu quạnh, hiu hắt...

(Lần đến: Bài 45, 46 và 47) 

Đỗ Phủ làm bài này năm Thượng Nguyên thứ 2 (761) ở thảo đường tại Thành Đô.

Dương Anh Sơn                                                                                                                 
             


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét