TÀI LIỆU THAM KHẢO VỀ TẾT NGUYÊN ĐÁN
Khánh Lan
Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ gọi đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm âm lịch quan trọng và có ý nghĩa bậc nhất ở Việt Nam, cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, người Việt có các phong tục như "cúng Táo Quân" (23 tháng chạp âm lịch) và "cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)
Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).[2]
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1[3]) tháng Giêng âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm đào và quất ở miền Bắc, miền Trung hay mai ở Miền Nam được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.
Từ nguyên: Hán-Nôm: 節元旦. Tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "節". "Tết" xuất hiện trước "tiết", vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tset/. "Tiết" xuất hiện sau "Tết", vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành /tsiet/. Ban đầu cả "Tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "Tết" và "tiết" như hiện nay. "Tết Nguyên Đán" vốn không phải là "Tiết Nguyên Đán" trong 24 bốn "Tiết khí" (chữ Hán: 節氣, pinyin: jiéqì) của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ "nguyên" 元 trong "Nguyên Đán" 元旦 có nghĩa là đầu, đầu tiên, còn "đán" 旦 có nghĩa là ngày. "Nguyên Đán" 元旦 là chỉ "Ngày đầu tiên, tức ngày mồng một của một năm Nông lịch".
Lịch sử Tết Nguyên Đán: Theo văn hóa Đông Á do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Tại Việt Nan, Lê Tắc ghi chép chi tiết về việc đón Tết của người Việt trong sách An Nam chí lược vào thế kỷ XIII như sau:
Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự-dụng, các quan tuỳ tùng đều mặc triều-phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích. Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, rồi xem các con hát múa trăm lối. Tối qua cung Động-Nhân bái yết Tiên-Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ "Khu-Na" (nghĩa là đuổi tà ma quỷ mị). Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ. Ngày Nguyên-Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điện Vĩnh-Thọ, các tôn-tử (con cháu nhà vua), các quan cận-thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên-An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện đánh thổi các bài ca-nhạc trước đại-đình. Con cháu nhà vua và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các tôn-tử lên điện chầu và dự yến. Các quan nội-thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu vua. Vua ngồi ăn trên đài"Chúng-tiên" hai tầng vàng ngọc sáng chói ở trước điện, các quan làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải-tán. Ngày mồng hai Tết, các quan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại-Hưng, xem các tôn-tử và các quan nội-cung đánh quả bóng (quả cầu thêu. Mùng năm Tết, lễ khai-hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du-ngoạn các vườn hoa. Cũng trong sách An Nam chí lược của Lê Tắc, người Việt có phong tục vẽ mình, ưa uống rượu, dùng trầu cau đãi khách, ăn dưa mắm, những vật dưới biển và đã tổ chức lễ Tết. Người Việt đón lễ Tết từ tháng giêng cho đến tháng ba âm lịch, chơi nhiều trò chơi như đá bóng, đá cầu, đánh cờ, đấu vật và tổ chức tế lễ. Học giả Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục rằng nước Việt thời nhà Lý, đã thực hiện các lễ nghi quan trọng như lập Đàn phong vân để cầu mưa, lập đàn xã tắc để cầu cho quanh năm được mùa, dùng ngày lập xuân để làm lễ nghinh xuân. Lê Quý Đôn viết rằng thời Hồng Đức (1442-1497) lễ Nguyên đán là ngày lễ quan trọng bậc nhất, trăm quan phải vào chầu vua.
Một số quốc gia Đông Á khác:
1. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Một vài nhà nghiên cứu Việt Nam và phương Tây cho rằng trên lãnh thổ Trung Quốc thời cổ đại có hai chủng tộc sinh sống là người Hán (Mongloid phương Bắc) ở lưu vực Hoàng Hà, người Bách Việt (Mongloid phương Nam) ở nam Dương Tử. Nền kinh tế sơ khai của người Hán là chăn nuôi du mục còn người Bách Việt trồng lúa nước. Tết là lễ hội nông nghiệp nên xuất xứ từ các dân tộc Bách Việt phương Nam còn người Hán chỉ tiếp nhận sau này.
Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng). Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1).[19] Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.
2. Người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng được tổ chức tại làng cổ Thập Phần vào dịp này.
3. Tết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn giữa nền văn hóa truyền thống Phương Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ. Trẻ em thì được lì xì, người lớn chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc
4. Trong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu xa, điều xui xẻo và chào đón điều tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam, Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và thường kéo dài trong ba ngày.
5. Ở Triều Tiên, hiện tại người dân nước này đón Tết Nguyên Đán vào mùng một tháng Giêng như nhiều quốc gia châu Á, khác với trước đây họ thường đón Tết vào tháng 10 hoặc 11. Tết của người dân Triều Tiên kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục truyền thống như dán hình động vật lên cửa để cầu may, xem tướng số, đón mặt trăng. Tết Âm Lịch hay còn gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là một trong những dịp lễ lớn nhất trong năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo hiệu mùa đông giá lạnh đã kết thúc, là dịp để gia đình sum vầy và thắt chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm, người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, trò truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng thức chúng.
Đông Nam Á:
1. Ở Singapore, người dân đón Tết truyền thống cùng thời điểm với Tết Nguyên đán của người Việt Nam. Những ngày Tết ở Singapore thường diễn ra với Lễ hội mùa xuân với ba sự kiện nổi bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội Singapore River Hongbao và Lễ hội đường phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất đông người dân tham gia.
2. Ở Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là người Hoa kiều, vì vậy Tết Nguyên đán cũng là một dịp rất quan trọng với họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ chính thức tại quốc gia này.
Tất niên:
Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại làm cỗ cúng tất niên va ăn cơm với nhau. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.
Sắp dọn bàn thờ:
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.
Giao thừa:
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát. Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Cúng Giao thừa trong nhà: là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới nhằm để cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết với phong cách trang nghiêm. Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánhkẹo, mứt Tết.
Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).
Ba ngày Tân niên:
"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc Tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha. "Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm, sau đó, người ta chúc Tết các bà mẹ theo tục: Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai để chúc Tết theo tục Đi sêu. "Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy, đi thăm viếng nhau.
Xông đất:
Xông đất là tục lệ quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
Cách chọn tuổi xông đất: Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh - Mậu. Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân - Kỷ. Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm - Canh. Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý - Tân. Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giáp - Nhâm. Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất - Quý. Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính - Giáp. Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh - Ất. Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu - Bính. Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ - Đinh.
Xuất hành và hái lộc:
Xuất hành là đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần. Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: Không nên hái lộc vì có thể có những cành lộc có "vong" hồn bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vô tình sẽ mang "vong" về nhà, nếu "vong" tốt thì không sao nhưng nếu "vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng ta không may mắn. Việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường. Việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh dành chẳng hạn. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn: Gió Nam: chỉ đại hạn; Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc; Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả; Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải; Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu; Gió Đông: chỉ có lụt lớn.
Chúc Tết:
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên, chúc Tết ông bà, "chúc thọ" các bậc cao niên, các bậc huynh trưởng.
Tục thăm viếng:
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc Tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công. Đến thăm những người hàng xóm, những gia đình sống gần với gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành, giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới. Đến thăm những bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với mình, chúc họ những câu tốt lành giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.
Mừng tuổi:
Lì xì: người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền, là Bát Tiên hóa than, được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Theo truyền thuyết: Ngày xưa có một con yêu quái thường xuất hiện vào đêm Giao thừa khiến trẻ con giật mình khóc thét lên. Hôm sau đứa trẻ nhức đầu, sốt cao, làm cho bố mẹ không dám ngủ, phải thức canh phòng yêu quái. Có một cặp vợ chồng nọ mới sinh được một mụn con trai kháu khỉnh. Tết năm đó, có 8 vị tiên dạo qua, biết trước cậu bé sẽ gặp nạn liền hóa thành 8 đồng tiền ngày đêm túc trực bên cậu bé. Sau khi cậu bé ngủ say, hai vợ chồng lấy giấy đỏ gói những đồng tiền này lại và đặt lên gối con rồi ngủ. Nửa đêm, con yêu quái xuất hiện định làm hại đứa trẻ thì từ chiếc gối loé lên những tia vàng sáng rực, khiến nó khiếp vía bỏ chạy. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ không phải là tiền chẵn, ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.
Hóa vàng:
Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. theo truyền thống cũ người Việt làm cơm, làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn, phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia. Tục hóa vàng theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.
Khai hạ:
Ngày mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết, trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.
Sắm Tết/Chợ Tết:
Chợ Tết là những phiên chợ họp vào trước Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hang nhất là các mặt hàng dùng cho Tết Nguyên đán như lá dong, gạo nếp, gà trống, hoa Tết các loại trái cây như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, dưa hấu. Những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại. Người Việt có câu "mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Chợ Tết chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm.
Mâm ngũ quả:
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: Chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê, táo, mãng cầu. Người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả, các loại quả đều có thể bày được miễn là nhiều màu sắc.Mâm ngũ quả của người miền Nam thường gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu như chuối (chúi nhủi), cam (cam chịu), lê (lê lết), sầu riêng (ưu buồn), bom (táo), lựu (lựu đạn) và trái cây có vị đắng, cay.
Cây nêu ngày Tết:
Là một cây tre cao khoảng 5, 6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ".
Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu...Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp cho tới đêm Giao thừa. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi".
Tranh Tết:
Tranh Đông Hồ trang trí ngày Tết Nguyên Đán, tranh "Đàn gà" hoặc "Sân gà" cầu chúc cho sự sung túc, đông con, Tranh dân gian Việt Nam, Tranh Đông Hồ, Tranh Hàng Trống, và Tranh Kim Hoàng. Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...). Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Câu đối Tết:
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh."
Câu đối
thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ( ) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam. Ngày nay vẫn còn tồn tại tục "xin chữ" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt, với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội. Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết.
Ẩm thực ngày Tết:
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có: Bánh chưng, bánh dầy, bánh tét, mứt Tết, trái cây, kẹo bánh, hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ. Thức uống ngày Tết: Các loại rượu, rượu nếp thơm, nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mông, người Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, người Nùng), rượu Bàu đá (Trung bộ), rượu đế (Nam Bộ). Cỗ Tết: Gà luộc, bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối.
Bữa ăn tất niên của người Huế thường có xôi, thịt heo quay, cá rô chiên, canh rau (hoặc canh khổ qua), me ngâm đường. Mâm cỗ cúng tổ tiên, thường có khoai, sắn, lạc và chè. Ở làng Vũ Đại, Hà Nam phải có món cá kho, ở làng Sơn Vi, Phú Thọ thường có thêm chè lam, người dân Quảng Nam phải có bánh tổ Hội An. Miền Nam thường có thịt kho nước dừa, canh khổ qua, nem bì, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng. Miền Bắc có cơm rượu, thịt đông, giò thủ, dưa hành, chè kho, mọc vân ám. Miền Trung có dưa món và món tré, thịt chua, tai heo.
Trong văn hóa-nghệ thuật:
Tết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam:
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
Mùng Một Tết cha,
Mùng Hai Tết mẹ, Mùng Ba Tết thầy
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Mong cho Tết đến dựng nêu ăn chè
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Tết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già... (Vũ Đình Liên - Ông đồ)
...Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om thòm trên vách bức tranh gà (Tú Xương)
Hay câu đối Tết như:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ)
Khánh Lan tham khảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét