Kính thưa quý Thầy Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Hưởng ứng lời mời của BBT, quý anh chị đồng môn và thân hữu đã sáng tác và gửi cho NHHN rất nhiều bài thơ và văn có nội dung về Mùa Xuân.
Mùa xuân Ất Dậu năm xưa thiếu cơm thiếu gạo, bao người chết đói. Mùa xuân Đinh Dậu năm nay diễn đàn NHHN tràn ngập thơ văn từ nhiều nơi gửi về. Hy vọng Thầy trò chúng ta sẽ có một năm an bình và sung túc.
Kính mới quý Thầy Cô và các Bạn đọc bài BA NGƯỜI ĐÀN BÀ TUỔI DẬU của đồng môn Lê Nguyễn Hằng K57-64.
Trân trọng giới thiệu
NHHN
Ba người đàn bà tuổi Dậu - Hình minh họa (Internet)
Mẹ của Huyền sinh năm Tân Dậu 1921. Khi hai mươi bốn tuổi, Mẹ làm công việc
nặng nhọc, vấp ngã khiến Huyền ra đời sớm gần hai tháng. Ngày còn nhỏ, mỗi lần
sinh nhật của Huyền, Mẹ vẫn thường nói: “Cô bé này vội
bò ra sớm quá nên nhỏ xíu như cái lon sữa guigoz. Đã thế
lại còn
sinh đúng
vào tháng ba năm Ất Dậu, lúc hằng triệu người miền Bắc chết đói đầy rẫy ngoài
đường. Cầu mong cho con được tiền hung hậu kiết.”
Huyền chẳng hiểu tiền hung hậu kiết là gì nhưng cũng mơ hồ đoán là số mình
lúc nhỏ vất vả, lớn lên sẽ được sung sướng.
Huyền ra đời vào lúc nạn đói lên đến tột đỉnh. Cả miền Bắc
không có đủ gạo ăn, mẹ Huyền một mình tần tảo buôn gánh
bán bưng nuôi bốn đứa con dại trong khi chồng đi theo kháng chiến. Mặc dù Mẹ
làm việc cật lực, gia đình vẫn bữa đói bữa no, riêng Huyền là con bé nhỏ nhất
được ưu tiên mà phần lớn cũng chỉ được ăn cháo với muối.
Thảm họa nạn đói năm Ất Dậu xảy ra từ cuối năm 1944 đến giữa năm 1945 vẫn
còn là một cơn ác mộng, nhức nhối trong ký ức của người Việt Nam. Khan hiếm gạo
từ miền quê đã lan đến các thành thị và luôn cả thủ đô Hà Nội nơi Huyền sinh
ra. Trong khi trời rét căm căm, thiên tai và mất mùa vì côn trùng phá hoại ở
nhiều tỉnh miền Bắc gây khốn khổ cho người dân nghèo thì thực dân Pháp và phát
xít Nhật cùng nhau vơ vét thóc gạo để nuôi chiến tranh và làm nguyên liệu cho
người Pháp nấu rượu cũng như dùng thóc đốt lò thay cho than đá. Họ lại còn bắt người dân phá
ruộng ngô, lúa trồng đay, trồng lạc. Hàng chục nghìn mẫu ngô bị phá, hàng triệu
tấn thóc bị thu vét.
Không có gạo, người dân đã ăn rau dại, củ chuối, vỏ cây; dân chài ăn rong
biển, cá chết và người ta phải giết cả trâu bò, chó mèo lấy thịt. Không còn gì
ăn thì họ đi cướp bóc hoặc ngồi chờ chết. Có làng hàng nghìn gia đình chết cả
nhà, có giòng họ chỉ còn vài người sống sót.
Mẹ Huyền kể rằng nhiều khi sáng dậy mở cửa ra là thấy những
thân xác gầy đét loạng choạng bước, người đi không nổi vịn vào kẻ khác. Đầu
đường có người thoi thóp rên xiết bên những thây bất động. Ôi thành phố nặc mùi
tử khí!
Hằng ngày xác người chết đói nằm ngổn ngang đầy đường, được chất lên xe bò
đem đi hất xuống hố, tổn thất nhân mạng lên tới hàng triệu người.
Nạn đói năm Ất Dậu
Thiếu thốn đến độ từ lúc sinh ra, chẳng mấy khi Huyền được uống sữa bò. Mẹ
thì lúc nào cũng vất vả buôn bán kiếm tiền, tất tả ngược xuôi lúc ban đêm để
tránh máy bay của Pháp. Bích, chị lớn nhất, là người săn sóc từng miếng ăn giấc
ngủ cho Huyền. Không có sữa nên phải cho Huyền ăn cơm nhai. Anh Tiên kể rằng
cơm gạo, thức ăn hiếm hoi đến nỗi chị Bích lúc ấy mới khoảng 8 tuổi, còn là một đứa con nít đang sức lớn nên lúc nào cũng đói và thèm ăn
mà phải nhai cơm, bón cho Huyền. Trong lúc nhai cơm, anh Tiên thấy rõ rằng chị Bích thèm ăn đến
độ chỉ chực nuốt miếng cơm xuống nhưng nhìn thấy Huyền, đứa em bé bỏng đang đói
há miệng chờ, lại phải nhè ra đút vào miệng em. Nghe kể như vậy, Huyền thương
chị đến ràn rụa nước mắt và tự hứa với mình là lớn lên sẽ chăm sóc, nuôi dưỡng
chị Bích suốt đời như một người mẹ thứ hai và Huyền đã thực hiện được tâm nguyện
đó. Nhờ tình thương yêu của gia đình, nhất là chị Bích và những giọt nước cơm
sánh đặc, Huyền đã lớn và tròn như hột mít.
Vài năm sau ba Huyền bỏ vùng kháng chiến trở về và may mắn tìm được việc làm
cho chính phủ nên đời sống tương đối dễ dàng hơn. Những ngày tháng bình yên
trôi qua chẳng được bao lâu thì biến cố Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 xảy ra
khiến cả triệu người miền Bắc bỏ xứ di cư vào Nam bằng máy bay và
tàu thủy của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba
Lan... Thêm
vào đó, còn có hàng trăm nghìn người tìm tự do bằng đường bộ hoặc ghe thuyền và
phương tiện riêng.
Sáng hôm ấy, một buổi sáng mùa thu năm 1954,
gió heo may lành lạnh thổi những chiếc lá vàng là đà trên
mặt đất khô hanh, làm tan nát lòng kẻ ly hương. Phi trường ồn ào như ong vỡ tổ, tiếng gọi
nhau ơi ới, chồng tìm vợ, mẹ kiếm con, xô đẩy, chen lấn nhau. Gia đình Huyền
cùng một số người khác bồng bế nhau leo lên chiếc phi cơ Dakota của Pháp. Ngồi
trong máy bay nhìn xuống phi trường Gia Lâm, Hà Nội mà lòng buồn rười rượi, Huyền chưa đủ lớn để cảm được nỗi đau
lòng sắp phải xa chốn mình sinh ra và lớn lên, nhưng buồn vì thấy Mẹ mấy ngày nay cứ đi ra đi vào một cách
vô hồn, rồi sụt sùi quệt nước mắt gói ghém quần áo để đem theo, mỗi người một cái tay nải nhỏ, hành trang bỏ
nơi chôn nhau cắt rốn ra đi chỉ có thế! Ngồi
trong lòng Mẹ, thỉnh thoảng nghe tiếng nấc nhè nhẹ, Mẹ ôm chặt lấy Huyền như thể
sợ Huyền cũng sẽ vuột mất khỏi tầm tay người như những gì thân yêu nhất đã vừa phải bỏ lại. Huyền biết Mẹ đang
khóc, Huyền
cảm nhận được từng hơi thở run rẩy của người. Hình ảnh đó theo Huyền suốt cuộc đời. Huyền thiếp đi trong lòng Mẹ cho đến khi
những tiếng nhốn nháo nổi lên
trong
máy bay làm bừng tỉnh.
Saigon chào đón đoàn dân di cư bằng cơn nắng vàng tươi. Saigon đẹp
quá, nhộn nhịp, tấp nập
với những căn nhà đồ sộ, xe cộ dập dìu, không giống một tí gì như trí tưởng tượng non nớt của Huyền đã vẽ ra. Saigon như một cô con gái nhà
giàu, đẹp lộng lẫy và kiêu sa, khác hẳn với Hà Nội của Huyền, một cô bé nhu mì,
dịu hiền mà duyên dáng. Mọi người trong xe đều dán mắt vào cửa kính để nhìn ra bên ngoài, chiêm ngưỡng một
thành phố lạ, tưng bừng, náo nhiệt, quên mất những lo âu trong lòng về một
tương lai vô định. Đa số họ là những người chưa từng vượt khỏi nơi mình sinh ra cho đến ngày hôm nay.
Trên đường tìm Tự Do 1954
Từ khi vào thành phố, một
luồng khí mới như
đã thổi vào trong xe, những khuôn mặt ưu tư biến mất, thay vào đó là sự hân
hoan, hăm hở như thể mọi người đều sẵn sàng hòa nhập vào cuộc sống mới phồn vinh, ồn
ào ngoài kia, nhất là đám con nít. Huyền ngước nhìn Mẹ, thấy một nụ cười rạng rỡ
và hai
giọt nước mắt âm thầm lăn trên má, Mẹ ôm và hôn lên tóc Huyền. Huyền vẫn không
hiểu tại sao Mẹ khóc. Người bóp tay Huyền thật chặt, nhưng Huyền không dám rút
ra. Cảm giác đó Huyền vẫn còn ôm ấp trong tim cho đến bây giờ.
Cũng như những gia đình công chức khác, sau khi được chính phủ phân bổ đi
khắp nơi, gia đình Huyền lại một lần nữa khăn gói đi định cư tại Tuy Hòa, tỉnh
Phú Yên.
Suốt mấy tháng đầu, hằng đêm Mẹ ngồi dưới ánh đèn dầu tù mù dở xem những tấm
hình đã nhầu nát, khóc rưng rức nhớ làng xưa, xóm cũ với bà con nội ngoại. Lâu
dần bận rộn chăn đàn con chín đứa, Mẹ cũng nguôi ngoai.
Nơi đây, Huyền lớn lên, đi học, đi làm, rồi lập gia đình. Lúc 24 tuổi, Huyền sinh đứa con thứ hai năm Kỷ
Dậu 1969, đặt tên Duyên. Mẹ bảo Huyền: “Con bé Duyên ra đời lúc xẩm tối, giờ gà
lên chuồng nghỉ ngơi, số nó sẽ thảnh thơi, nhàn hạ; không phải như con, sinh ra
lúc tảng sáng là khi gà đi kiếm ăn, nên số con lúc nào cũng phải tay làm hàm
nhai!” Huyền tự an ủi: “Có làm mà có nhai là tốt rồi mẹ ạ!”
Dù có ba đứa con và chồng làm công chức chánh ngạch, Huyền vẫn đi làm để
nuôi hai đứa em của mình và hai đứa cháu của chồng theo đại học. Sự thành công
trên đường học vấn của các em và cháu là một phần thưởng lớn lao cho Huyền.
Duyên sinh ra và lớn lên trong sự nuông chiều, hạnh phúc của đại gia đình.
Tháng 3 năm 1975, làn sóng người hoảng loạn chạy thục mạng từ các tỉnh miền
Trung vào Nam đã khiến mọi người hoang mang,
mất niềm tin và đứng ngồi không yên. Trong khi bao người
xôn xao, vội vã tìm đường ra khỏi Việt Nam bất chấp hiểm nguy, Liêm chồng của
Huyền vì tự ái và lương tâm của một nhân viên chính phủ, quyết định ở lại mặc
dù Huyền đã được sở làm thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, cho phép cả gia đình di tản
sang Mỹ. Cái đêm định mệnh hôm ấy, khi tưởng là các con đã ngủ say, Liêm bảo vợ:“Từ
nay trở đi, vợ chồng và ba đứa con ngủ chung một phòng, nếu có chết thì cả gia
đình cùng chết chung.” Bỗng nhiên Duyên, đứa con gái tuổi Kỷ Dậu khóc hét lên:
“Ba má ơi, con sợ lắm, ba má đừng bắt con chết”. Lời cầu xin
đứt ruột này làm động lòng Liêm và hai vợ chồng làm một quyết định
đau lòng là bỏ nước ra đi.
Di cư 1975 (tòa đại sứ Hoa Kỳ)
Huyền còn nhớ rất rõ, chiều ngày 26 tháng 4 năm 1975, họ cho Huyền hai tiếng đồng hồ để gói
ghém chỉ một kí lô hành lý cho mỗi người mang theo. Cũng như Mẹ khi xưa, Huyền
thẫn thờ đi ra đi vào như một cái xác không hồn và nước mắt đầm đìa. Làm sao Huyền
có thể gói gọn những gì vợ chồng Huyền làm lụng vất vả và dành dụm trong gần mười
năm qua vào túi nặng 5 kí lô đây? Cả một quê hương yêu dấu còn phải bỏ lại thì
sá gì những món đồ vô nghĩa kia? Huyền chỉ xếp vào túi cho mỗi người một bộ quần
áo và mấy quyển album đựng hình ảnh của gia đình vì Huyền biết rằng những báu vật
này không thể nào có lại được nữa, hành trang lìa bỏ đất nước thân yêu ra đi chỉ
có thế!
Chẳng mấy chốc đã tới giờ hẹn, gia đình Huyền đến phi trường Tân Sơn Nhất
chờ đợi trong bàng hoàng, hoảng loạn và đau đớn. Bàng hoàng, hoảng loạn vì
không biết mình có may mắn thoát được cơn hồng thủy này không và nếu thoát được
thì lại đứt ruột vì phải đành đoạn bỏ quê hương, xa bà con ruột thịt và bạn bè.
Phi trường thật là náo nhiệt và hỗn độn. Con nít bò lăn bò càng, chạy huỳnh
huỵch đuổi nhau ầm ĩ. Người ta nằm, ngồi la liệt, người kê đầu trên vali, kẻ tựa
lưng vào tường, hoặc nằm dưới đất, ai trông cũng lo lắng và mệt mỏi, bơ phờ.
Đâu đây nghe tiếng khóc lóc, thầm thì những lời bàn tán, dặn dò, nhắn nhủ.
Nét ưu tư hoảng sợ lộ trên nét mặt. Bỗng có tiếng ồn ào khiến mọi người chồm dậy
ngơ ngác nhìn thấy một viên cảnh sát đang rảo mắt nhìn quanh, ai nấy đều sợ sệt
nhất là những công chức và thanh niên trong tuổi đi lính. Khi biết người ấy đến
tìm thân nhân để chào tiễn biệt thì mọi người thở phào nhẹ nhõm.
Ở phi trường suốt hai đêm một ngày trong thấp thỏm, hồi hộp, thân thể rã rời chờ
được gọi tên mình. Sáu giờ sáng hôm sau, khi gia đình Huyền bước chân lên máy
bay Quân Đội Hoa Kỳ chỉ kịp thấy sau lưng một xe Quân Cảnh Việt Nam trờ tới và
người trong xe nói mấy câu gì nghe không rõ, người quân nhân Mỹ xua tay và đóng
cửa máy bay lại. Lúc sau anh ta giải thích là người Quân Cảnh đòi khám xét
nhưng anh ta từ chối, bảo rằng “những người này đã trèo lên bực máy bay này là
đã ở trên tài sản và lãnh thổ của Hoa Kỳ”. Anh đã mỉm cười nghe và thấy ánh mắt
biết ơn của chúng tôi. Khi phi cơ vừa cất cánh, mọi người Việt Nam trong máy
bay với cõi lòng tan nát đều khóc òa lên vì nghĩ rằng lần bỏ nước ra đi này là
một chuyến đi vĩnh viễn không có ngày trở lại. Chẳng ai bảo ai, mọi người đồng
loạt cất tiếng hát bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa trong nghẹn ngào cho đến khi
khản tiếng.
Đây là một trong vài chuyến bay sau cùng rời Saigon hôm ấy. Nếu Duyên không
khóc lóc năn nỉ thì cả nhà Huyền đã ở lại và nếu chuyện ấy xảy ra trễ một ngày
thì gia đình Huyền đã không còn cơ hội để ra đi.
Sự xúc động của Mẹ ngày ấy, bây giờ Huyền đã cảm nhận được một cách trọn vẹn
khi hiện tại, chính Huyền cũng là một người mẹ phải bỏ nước ra đi vào ngày đau
buồn 30 tháng 4. Lịch sử là một sự lập lại như ai đó đã từng nói, Huyền bây giờ
là hình ảnh của Mẹ “năm 54”.
Một khoảng cách 21 năm, hai đời người, hai không gian khác nhau, nhưng Mẹ
và Huyền, hai người đàn bà trẻ cùng sanh năm Dậu,
ở tuổi 30 đã có chung một cảm xúc và một mối thương lòng
phải xa lìa nơi chôn nhau cắt rốn! Cuộc chia ly nào mà không đẫm nước mắt đớn
đau!
Bây giờ Huyền đã hiểu vì sao Mẹ khóc, có những giọt nước mắt cho thương đau
và có những giọt nước mắt cho hân hoan vì đã trút được bao nỗi lo lắng trong
lòng.
Khi đặt chân vào trại tỵ nạn Fort Chaffee ở Arkansas giữa tháng 5 năm 1975,
Huyền đã may mắn được một người Mỹ tốt bụng làm trong trại
giúp tìm ra được Carol Steele, người xếp cũ ở Saigon, rồi ngày thứ sáu, 13
tháng sáu, được Carol và John bảo lãnh ra định cư ở tiểu bang Virginia.Vợ chồng
nhà bảo trợ đã hết lòng lo cho gia đình Huyền vượt qua bước đầu bỡ ngỡ, khó
khăn và họ đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống của gia đình Huyền.
Thỉnh thoảng hai gia đình vẫn gặp nhau làm mối thâm tình càng ngày càng keo sơn.
Con cái thành đạt - Hình minh họa (Internet)
Ba năm sau, gia đình Huyền cùng một số bạn bè dọn từ Virginia giá lạnh về
San Jose, thung lũng hoa vàng, nắng ấm của tiểu bang California.
Nơi đây hai vợ chồng có việc làm tốt và ba đứa con ăn học
nên người.
Thật đúng như lời Mẹ đã nói, dù Huyền đã may mắn được ông Trời và nước Mỹ
cho nhiều cơ hội tiến thân nhưng lúc nào Huyền cũng cố gắng vượt bực để hoàn tất
nhiệm vụ và Huyền rất hãnh diện với những thành quả đạt được trên con đường sự nghiệp của mình.
Huyền luôn cám ơn ông Trời đã cho Huyền một gia đình hạnh phúc với ba đứa
con ngoan, cám ơn gia đình bảo trợ đã giúp đỡ tận tình với tất cả lòng nhân ái
và cám ơn đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cho cơ hội để gia đình Huyền trở thành
những người công dân tốt.
Sau hơn ba chục năm làm việc miệt mài tận tụy trong các hãng xưởng trên đất
Mỹ, hai vợ chồng đã về hưu để có thì giờ cho các con và bốn đứa cháu ngoại.
Duyên, con gà Kỷ Dậu, nhờ giống bác Bích, chị của Huyền, nên càng lớn càng
đẹp mặn mà và duyên dáng. Sau khi học xong và đi làm một thời gian, Duyên lập
gia đình với Smith khiến bao nhiêu chàng trai từng đeo đuổi thất vọng. Chồng của
Duyên đã cùng bốn người bạn thân, lập một công ty sản xuất những món hàng dùng
cho an ninh, quốc phòng và rất thành công. Ngày có thai đứa con đầu lòng, Duyên
nghỉ việc để chờ đón thành viên mới ra đời.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc với hai đứa con, một gái, một
trai. Duyên ở nhà chăm sóc chồng con và một mảnh vườn rau trái sau nhà với một
cuộc sống yên ổn và nhàn hạ đúng như lời Mẹ Huyền đoán.
Khi cùng gia đình bỏ chạy qua Mỹ, Duyên chỉ mới 6 tuổi, còn quá nhỏ nên
chưa cảm nhận được nỗi oan khiên của sự mất mát, chia ly. Hy vọng là trong suốt
cuộc đời, Duyên không bao giờ phải trải qua những kinh nghiệm đau thương như Mẹ
và Bà Ngoại.
Duyên năm nay đã 47, qua cái tuổi ba mươi mấy mà Mẹ và Bà Ngoại đã phải đứt
ruột rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn ra đi. Duyên đang sống ở một quốc gia tự do,
hùng cường, thịnh vượng nhất thế giới, nhưng quan trọng hơn cả, đây là một nơi
mà quyền làm người được tôn trọng, một nơi an bình và đầy lòng nhân ái.
Lê Nguyễn Hằng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét