Kính thưa quý Thầy Cô, quý anh chị Đồng Môn và Thân Hữu
Ban Biên Tập diễn đàn NHHN nhận được link của đồng môn Huyền Chiểu gửi đến. Trong link viết về nhà thơ Huyền Chi, tác giả bài thơ THUYỀN VIỄN XỨ. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc dựa theo ý bài thơ.
Dưới đây là chú thích của chị Huyền Chiêu:
Là một trong những bài hát hay nhất của Phạm Duy.
Là bởi mọi người ai cũng có nỗi buồn xa xứ.
Càng già ta càng bâng khuâng khi nhớ lại bến nước, dòng sông, con đò thời thơ trẻ.
Tuổi thơ, đó là quê hương không bao giờ ta được quay về
Ai cũng mất quê hương, ai cũng cứ đi mãi về nơi vô định.
TVX là khúc Nostalgie hay tuyệt.
HC
Trân trọng giới thiệu
NHHNTác giả bài thơ "Thuyền Viễn Xứ" là ai ?
Bìa bản nhạc Thuyền Viễn Xứ
Ở đây chúng tôi không đề cập đến kỹ
thuật âm nhạc và kết cấu bài thơ Thuyền Viễn Xứ, chỉ nêu một chi tiết chưa minh
bạch về tác giả bài thơ.
Tạp chí Sông
Hương số 273 tháng 11-2011, trang 62-69 có bài “Phạm Duy: thơ
phổ nhạc“ của Đặng Tiến. Tác giả có nói đến bài thơ Thuyền
Viễn Xứ của Huyền Chi nhưng chỉ với vài lời, vừa thuật, vừa trích lẫn lộn:
... ”…khi
Phạm Duy phổ nhạc bài Thuyền Viễn Xứ, 1953, thuyền ơi viễn xứ xa khơi…sóng Đà
giang…thơ của Huyền Chi, một cô hàng vải trong chợ Bến Thành không mấy ai biết
đến”.
Như vậy, tác giả
chứng tỏ không biết Huyền Chi là ai, lại còn có ý chê thể thơ lục bát khi ông
viết :
” Anh (tức
Phạm Duy) đã biến nhịp lục bát đơn điệu, tẻ nhạt thành những tiết tấu sinh
động, tha thiết, phong phú”.
Để bạn đọc biết
thêm Huyền Chi là ai, ở đây chúng tôi xin phác họa đôi nét về tác giả:
"Vào khoảng
trước và sau 1954-1957, hầu hết học sinh, sinh viên miền Nam đều thích nhạc của
Phạm Duy, trong đó có bài Thuyền Viễn Xứ, loại thơ phổ nhạc. Bài này được các
ca sĩ nổi tiếng như Thái Thanh, Lệ Thu…thể hiện rất truyền cảm. Bọn trẻ chúng
tôi lúc đó đang học Trường Trung học Phan Bội Châu - Phan Thiết. Không ai bảo
ai. Đứa nào cũng “mê “, cứ lải nhải hát Thuyền Viễn Xứ, như ngầm chứng tỏ với
nhau ta đây là dân…sành điệu.
Dần dần, tác giả
bài thơ là Huyền Chi trở thành thần tượng của tuổi trẻ trường Phan Bội Châu -
Phan Thiết. Không đứa nào không biết Huyền Chi bằng xương, bằng thịt, chính là
vợ của thầy giáo dạy tiếng Pháp cho mình. Và tất nhiên, chúng tôi phải gọi nhà
thơ, vợ của thầy mình bằng cô. Hơn nữa, cô Huyền Chi là người phụ nữ đẹp, tài
sắc vẹn toàn. Cô có nước da trắng khỏe, dáng người cao, gương mặt tươi, miệng
cười hiền hậu, dễ mến, tà áo dài màu thiên thanh đài các trong những chiều lộng
gió, khi thầy cô sánh đôi giữa thành phố Phan Thiết, đã làm xao xuyến tâm hồn
bao nữ sinh thời bấy giờ. Dưới mắt họ, đó là cặp đôi hoàn hảo.
Chúng tôi còn
biết cha chồng của cô - cụ Đức Huy -, cũng là một người yêu văn thơ trong nhóm
Liên Thành Thi xã, đã cùng các cụ Phú Khê, Phú Sơn, An Bình…xướng họa. Nhóm của
các cụ cùng với nhóm Hương Bình Thi xã ở Huế thường trao đổi thi bài.
Cô Huyền Chi tên
thật là Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934, quê ở Bắc Ninh. Năm 1948-1949, cô ở Đà
Lạt với người chị ruột. Năm 1950, 16 tuổi, cô về Sài Gòn ở với mẹ. Mẹ cô có sạp
vải bán ở chợ Bến Thành, mỗi sáng cô thường giúp mẹ dọn hàng. Dọn hàng xong mới
về đi học, có lúc vừa đi học vừa đi làm.
Nhà thơ Huyền Chi và phu quân
Năm 1950-1952,
cô làm thư ký tòa soạn tạp chí Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương, chuyên
trách mục thơ, cũng là phó nhóm Thơ-Văn-Nhạc Chim Việt. Cũng năm này, cô in tập
thơ đầu tiên của mình là tập Cởi Mở tại nhà in Sống Chung của bà Đào. Theo lời
cô kể:
“Khi tập thơ mới
hoàn thành, tôi đang giở xem bản in đầu tiên thì ông Phạm Duy đến. Có lẽ ông
này quen biết với chủ nhân nhà in. Qua lời giới thiệu của bà Đào, ông biết tôi
là tác giả tập thơ, ông đến bên tôi và nói:
“Tôi là nhạc sĩ
Phạm Duy, có thể nào cô cho tôi một quyển, nếu tôi thấy có bài nào hay, tôi sẽ
phổ nhạc“.
Ông còn yêu cầu
tôi viết lời ký tặng. Đó là lần duy nhất tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy“.
Sau này, dường
như năm 1953, bản nhạc Thuyền Viễn Xứ được in ra, thâu băng và phát hành ra
nước ngoài. Thời ấy, cô Huyền Chi có người anh là một kỹ sư hàng không ở Pháp,
có lúc ông anh gởi thơ nói với cô:
“Anh không ngờ
thơ em qua tận Paris”.
Năm 1954, Huyền
Chi lấy chồng. Chồng cô là người Huế, dạy học ở Phan Thiết. Lúc này, cô có mở
một hiệu sách mang tên Bút Hoa tại nhà và vẫn cộng tác thơ với tạp chí Tiền
Phong ở Sài Gòn. Nhưng về sau, cô không còn tiếp tục nữa. Tập thơ Cởi Mở bị
thất lạc vào năm 1975, khi cô dọn nhà về Sài Gòn, do cuộc mưu sinh.
Trở lại câu
chuyện hiện nay. Năm 2005, chúng tôi được biết nhạc sĩ Phạm Duy về nước và qua
anh bạn Linh Phương, - tác giả bài thơ Kỷ Vật Cho Em cũng được Phạm Duy phổ
nhạc - chúng tôi mới gợi ý với cô: nên chăng, cần cho Phạm Duy và bạn đọc hiện
nay biết về tác giả Thuyền Viễn Xứ. Sau đó, chúng tôi và Phạm Duy trao đổi vắn
gọn bằng thư. Nhạc sĩ Phạm Duy có trả lời, nhưng riêng Huyền Chi thì giữ ý
không muốn gặp nhạc sĩ. Những năm gần đây, cô gởi cho chúng tôi một số bài thơ
cô mới sáng tác.
Bây giờ tác giả
Thuyền Viễn Xứ chẳng còn trẻ. Chồng nữ sĩ đã mất, nữ sĩ đang sống với các con ở
Sài Gòn, hằng ngày dạy kèm tiếng Anh cho các cháu trong xóm. Nhạc sĩ Phạm Duy
vừa ăn mừng lễ khánh thọ cửu tuần. May mắn là những người trong cuộc vẫn còn
tại thế, nhưng hai người gặp nhau chỉ một lần qua tinh thần tập thơ Cởi Mở,
chứng tích là bài Thuyền Viễn Xứ.
Nhắc lại chuyện
này chỉ để giúp bạn đọc biết thêm đôi nét đan thanh của một tác phẩm, qua hơn
nửa thế kỷ chưa nhuốm bụi thời gian.
Nhân đây,
chúng tôi cần xác minh: Huyền Chi và Hà Huyền Chi là hai nhà thơ riêng biệt.
Người ta hay nhầm lẫn vì trong bút danh, có trùng hai chữ “Huyền Chi“. Ông Hà
Huyền Chi là tác giả nhiều bài thơ trong quân đội Sài Gòn, thuộc chế độ cũ. Còn
Huyền Chi, tác giả bài thơ Thuyền Viễn Xứ là phụ nữ.
Vừa qua, có
người nghe ca sĩ Ánh Tuyết hát bài Thuyền Viễn Xứ, mà MC giới thiệu là thơ của
Hà Huyền Chi (!).Bài
viết này đã được tác giả Thuyền Viễn Xứ thông qua và đồng ý. Xin cám ơn nữ sĩ
Huyền Chi."
Nguyễn
Phước Thị Liên
Huyền Chi là bút
danh của Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934 tại Từ Sơn (Bắc Ninh), theo gia đình
vào Nam từ trước năm 1954. Lúc mới vào Nam (1948-1949), cô ở với chị gái tại Đà
Lạt, sau đó về Sài Gòn (1950) vừa đi học vừa phụ mẹ trông nom sạp vải ở chợ Bến
Thành.
Bài thơ Thuyền
viễn xứ là một trong 22 bài thơ nằm trong tập thơ Cởi mở của Huyền Chi xuất bản
năm 1952, trong thời gian cô sinh hoạt với một nhóm văn nghệ sĩ trẻ và làm thư ký
tòa soạn chuyên trách mục thơ cho Tạp chí Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan
Phương.
Trong quyển Hồi
ký Phạm Duy (tập 3, ấn bản 2008), tác giả Phạm Duy viết như sau:
"Gần hai
năm đã trôi qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền Nam,
lo ổn định nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn... Vào thời điểm
này (trước cuộc di cư 1954), Huyền Chi, một cô em bán vải ở
chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ nhạc bài thơ nhan đề Thuyền viễn xứ. Bài thơ này
nói lên tâm trạng một người Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để vào sinh sống
tại miền Nam. Phổ nhạc xong bài thơ nhớ miền viễn xứ...".
Huyền Chi lập
gia đình với giáo sư Trần Phụng Tường vào năm 1954, và theo chồng ra Phan
Thiết, nơi ông đang dạy Pháp văn ở Trường trung học Phan Bội Châu. Ở đây bà mở
hiệu sách Bút Hoa và dạy Anh văn.
Sau 1975, gia
đình bà Huyền Chi chuyển vào Sài Gòn. Bà hiện vẫn còn sống tại đây, còn chồng
bà - ông Trần Phụng Tường mất năm 2010.
Phạm
Duy viết:
"Trước khi
gần một triệu người sẽ di cư vào miền Nam và ai cũng sẽ đều nhớ tới cảnh vật,
sự việc và con người của thôn quê miền Bắc, tôi làm quen với một cô em bán vải
ở Chợ Bến Thành tên là Huyền Chi. Cô ''Bắc Kỳ nho nhỏ'' này có một bài thơ nhớ
quê hương cũ nhan đề THUYỀN VIỄN XỨ và đưa cho tôi phổ nhạc...
Bài thơ này nói
lên tâm trạng một người phải rời bỏ bến Đà Giang ở miền Bắc để đi vào miền Nam
và nói lên sự hoài hương, nhớ miền viễn xứ... Bài thơ trở thành bài hát và được
phổ biến trong thời gian người Bắc ùn ùn di cư vô Nam nên ai cũng muốn hát nó,
muốn nghe nó..."
Bài thơ THUYỀN VIỄN XỨ
Huyền Chi
Ra khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…
Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…
Xem thêm
Bài Hát
Thuyền Viễn Xứ - Thơ Huyền Chi - Nhạc Phạm Duy
Click
here ==>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét