GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài NGUỒN GỐC HAI CHỮ SONG HỶ, tác giả Khuyết Danh, sưu tầm do thầy Hồ Văn Phú chia sẻ. Xin cám ơn tác giả và thầy Hồ Văn Phú rất nhiều.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN
Nguồn Gốc Hai Chữ Song Hỷ
Trong lễ ăn hỏi, đám cưới của người Việt Nam, chữ Song Hỷ màu đỏ
xuất hiện rất nhiều, từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt
sen, quả cau, lá trầu… Có khi chữ Song Hỷ còn được dán ở nhà, ngoài ngõ để
thông báo cho mọi người về đám cưới. Nguồn gốc của hai chữ này từ đâu?
Chữ này gắn chặt với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn,
trời định về tình duyên, thi cử của bậc danh sỹ nổi tiếng đời nhà Tống, một
trong “Đường Tống bát đại gia” – Vương An Thạch.
Giai thoại về ông liên quan đến chữ Song hỷ như sau:
Thuở nhỏ Vương An Thạch học rất giỏi, năm 20 tuổi chàng lên kinh
đô cách quê 200 dặm để dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng trù
phú. Nhà Mã viên ngoại trong vùng đang kén chồng cho con gái. Vị viên ngoại này
là người có học nên muốn kén rể là người giỏi giang uyên bác chứ không muốn kén
chồng giàu có mà ít học cho con gái.
Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc viên ngoại đó mở tiệc mừng
thọ. Trong nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, khách khứa ra vào đông như hội. Bên
ngoài cổng có treo một lồng đèn lớn, kẻ qua người lại xúm nhau xem xét, bàn
tán.
Vương An Thạch thấy lạ, ghé vào nhìn thấy trên đèn kéo quân có
dán một vế đối:
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”
(Nghĩa là: Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”
(Nghĩa là: Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).
Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, nhưng vẫn nói cứng “Câu
này dễ đối thôi”, rồi bỏ đi. Người nhà của Mã viên ngoại nghe được, chưa kịp
trình với Mã viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường đến kinh đô.
Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp bài
trước tiên. Quan chủ khảo lật xem, tấm tắc khen tài, vấn đáp ông trả lời trôi
chảy đã có ý lấy ông đỗ đầu. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử
tài thêm.
Thấy ở sân rồng có một lá cờ trên có thêu một con hổ, vua ra cho
ông một vế đối:
“Phi kỳ hổ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân
(Nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).
“Phi kỳ hổ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân
(Nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).
Hình minh họa (internet)
Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà
Mã viên ngoại và thấy thâm ý rất hay lại cân xứng, hoàn chỉnh với vế đối của
vua liền ứng khẩu đọc ngay: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”
Vua và quan chủ khảo thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối
rất chỉnh, có ý nghĩa xuất sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi
đó.
Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê
nhà. Khi đi qua Mã gia trang, người nhà của Mã viên ngoại nhân ra Vương là
người nói rằng vế đối trên đèn kéo quân dễ đối, nên mời Vương vào nhà trình với
Mã viên ngoại.
Mã viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy
câu của vua đọc lên thành: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ/
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân”.
Trong khi chờ tên lên bảng vàng, Vương AnThạch trở về quê
nhà
Mã viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất khéo
lại ẩn ý khoa tương lai nên nói với Vương An Thạch rằng: “Vế đối dán trên
đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối thế, nếu gặp ai đối
được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái ra cho hai bên được giáp
mặt”.
Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang.
Xem bói tình duyên để biết vợ chồng có hợp nhau hay không?
Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn lại Mã
gia trang. Ngay liền trong ngày đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu
Trạng nguyên, được triều đình gọi lên kinh đô để nhậm chức.
Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà một lượt gặp hai điều vui
mừng: Thi đậu trạng nguyên và cưới được vợ giàu có.
Vương
An Thạch bèn hứng chí ngâm nga:
“Vận
may đối đáp thành song hỷ
Cờ hổ,
đèn quân kết vợ chồng”
Sau đó lấy giấy viết hai chữ “Hỷ” rất to trình lên
nhạc gia và gửi về cho gia đình một bản. Thông báo lại hai việc vô cùng may
mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đõ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).
Với việc viết hai chữ “Hỷ” liền nhau đọc là “song hỷ”
vị trạng nguyên này đã sáng tạo ra một chữ mới, chữ “Song Hỷ”
Như
vậy, nguồn gốc của chữ Song hỷ do điển tích vừa thi đỗ Trạng nguyên vừa cưới
được vợ giỏi. Có người còn nói rằng, Song Hỷ là việc vui mừng song song, nhà
trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái.
Khuyết danh
Khuyết danh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét