GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN XIÊM, tác giả Mường Giang. Đây là một tài liệu lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Vua Quang Trung đại thắng quân Xiêm vào những ngày cận tết Giáp Thìn 1785. Xin cám ơn tác giả Mừng Giang.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN
VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN XIÊM
Xưa
nay, bất cứ quốc gia nào cũng đều có những trang lịch sử đẫm máu và nước mắt.
Từ đó mới có những anh hùng - liệt nữ, cũng như bọn phản tặc bán nước hại dân,
các đấng minh quân hay lũ bạo chúa. Lịch sử là vậy, nên dù được viết bằng văn
tự rõ ràng hay loan truyền qua bia miệng, miên viễn người đời ai cũng thích tôn
kính các bậc anh hùng vì dân vì nước, dù họ có phạm lỗi lầm như Lê Hoàn, Lý
Công Uẩn, Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Lê Lợi...
Cận
sử VN có Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh), có công rất lớn đối với dân tộc, vì đã
thống nhất được đất nước, từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội
chiến giữa Trịnh - Nguyễn và nhà Tây Sơn. Ông cũng đã ổn định được một vùng đất
mới, do các chúa Nguyễn tại Nam Hà, đã Khai phá được, từ Thuận Trấn (Bình
Thuận) vào tới Hà Tiên (Thủy Chân Lạp), biến chốn hoang vu ma thiêng nước độc,
bị người Chàm và Khmer bỏ hoang hằng bao thế kỷ, thành nơi thị tứ phồn hoa,
ruộng vườn xanh mơ bát ngát, mà ngày nay con cháu thênh thang ấm no mừng hưởng.
Nhưng
đã nói lịch sử vốn vô tình, công thì sùng kính ca ngơi nhưng nếu có tội vẫn bị
chữ nghĩa phanh thây trên trang giấy. Nên đồng thời nhà vua cũng bị các sử gia
nặng bút phê phán về nhiều tội như ‘Vong Ân Bội Nghĩa‘, khi chính tay giết
những công thần đã giúp mình gồm Ðổ Thành Nhơn, Nguyễn Văn Thành, Ðặng Trần Thường... Vua cũng là người nhỏ nhen khi ra lệnh đào mồ Quang Trung, phân thây Bùi Thị
Xuân và trên hết vì muốn chiếm lại đế nghiệp, đã phải nhờ nước ngoài giúp mình,
gây nên cảnh nồi da xáo thịt. Ngoài ra vua cũng như nhà Nguyễn đã quá ngu muội,
đần độn, khi vẫn tiếp tục coi Nho là quốc giáo, để an bang tế thế, trong lúc đã
nhìn thấy rõ, là Thanh Triều, cũng vì chính trị thối nát, nên nước Tàu, cũng đang
bệ rạc, đâu có điều gì hay, để cho VN phải bắt chước?
Ngày
nay qua những khai quật của lịch sử, việc quân Xiêm vào xâm lăng đất đai Nam
Kỳ, nói là do Nguyễn Ánh cầu viện, vẫn đang là một nghi vấn. Nhưng sử viết vua
Gia Long là người cực đoan, có tình yêu nước nồng nàn, qua hành động không bao
giờ chịu cắt một ly đất đai của nước ta, nhường cho ngoại quốc, kể cả sứ bộ Bá
Ða Lộc, từng vào sinh ra tử với Chúa, lúc còn tẩu quốc, đó là sự thật.
Qua
sử liệu, ai cũng biết xưa nay, trên bán đảo Ðông Dương, Ðại Việt và Xiêm La là
hai con cọp, lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với hai nước yếu
nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng chạm giữa
hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị bại trước sự dũng mãnh phi thường của nước
Việt.
Tuy
nhiên người Xiêm đã thật sự sợ dân Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung
(Nguyễn Huệ), tiêu diệt hơn 2 vạn quân, đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền, tại
Vàm Rạch Gầm - Xoài Mút, tỉnh Ðịnh Tường, vào những ngày sắp Tết năm 1785. Vì vậy
từ đó tới nay, Thái Lan thâm thù người Việt đến tận xương tủy, nên hằng tìm đủ
mọi cách để trả thù. Thảm kịch của đồng bào tị nạn Nam VN trên biển Ðông, do
hải tặc Thái Lan gây ra, được chính quyền nước này làm ngơ hay chỉ ngó tới một
cách lơ là chiếu lệ, đã nói lên rõ ràng sự trả thù của vua chúa nước này đối
với VN, qua những hận nhục bại trận quá khứ. Ðây cũng là một hệ lụy tất yếu của
dân tộc hùng anh dũng liệt Ðại Việt, nhưng luôn bất hạnh vì thiếu vắng những
bậc cầm quyền tài trí đảm lược, nhất là trong thời cận sử cho tới ngày nay,
khiến cho nước ta luôn bị lệ thuộc ngoại bang, không biết tới bao giờ mới ngoi
lên khỏi vũng bùn nô lệ.
"tiếng ai than khóc sầu thương
Nhị Hà nước xuống trùng dương xa mờ
Chương Dương, Hàm Tử ngàn xưa
Giờ sao sông núi, bụi Hồ vấn vương..."
1- NƯỚC XIÊM LA:
Xiêm
La hay Thái Lan ngày nay có diện tích 198.455 sq.ml hay 512.998 km2, dân số
tính tới năm 2004 là 55.448.000 người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các) chưa kể
ngoại ô có 1.867.297 người. 95% người Thái theo Phật giáo tiểu thừa.
Thật
ra Xiêm không phải là quốc hiệu của người Thái. Ðó là cái tên mà người Cao Mên
và Chiêm Thành dùng để gọi họ. Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất
hiện trên các văn bia của người Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người
Syam, thì đầy rẫy nơi các di tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên
từ thế kỷ thứ XII sau TL.
Người
VN theo cách gọi của Miên và Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối
phát âm Bắc Kinh, đọc là Tiêm, rồi ghép với tên của nước La Hộc, tức là vùng
Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam, thành nước Tiêm - La. Còn người
Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói
trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa Từ Ðiển của Ý Ðại Lợi (Enciclopedia
Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp khi dùng tiếng Siam để chỉ người
Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người Miến Ðiện dùng để chỉ người
Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.
Nhưng
căn cứ vào sử liệu, ta thấy từ ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là
Thay, còn người Shan là Nghiện. Riêng danh từ Siam chỉ mới xuất hiện gần đây. Do
trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường Thay hay Prathet Thay. Ðời vua
Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước
này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939, tướng Phibul Songgram lên làm
thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái. Từ 1945-1948, tên nước trở lại
là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là Thái. Với người Anh, họ phiên âm
Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau này gọi nước Xiêm là Thailand.
Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn VN thì đọc là Thái Lan.
2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ÐẠI VIỆT VÀ THÁI
LAN :
Từ
đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã tới khai hoang tại vùng Ðồng-Nai và Mỏi-Xùy
(nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự
kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước đến nay, nên quốc vương nước này là Chey
Chetia II sang cầu thân với Chúa Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó,
Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của
mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho
dân Ðại Việt tới làm ăn tại Chân Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc
Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường bộ từ Phú Yên vào Ðồng Nai, vì lúc đó nước
Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La đả kết thù với Ðại Việt, vì cả hai đều
muốn giành giựt ảnh hưởng tới Lào và Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu
kém, do nội loạn thường trực.
Năm
1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và dắt quân
Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn, chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi giết
người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Ðồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương
Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về
biên giới Miên - Thái, giết vua Nặc Ông Ðài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân
Lạp, đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp, tại Sài Gòn.
Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.
Năm
1687, quân Xiêm lại vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại
Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc
Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền, xin thần phục Nam Hà, nên được
Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng binh.
Năm
1717, quân Xiêm tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải
bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng
sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước.
Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.
Năm
1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại
bác trên núi Tô Châu bắn vào thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh
Mạc Thiên Tứ vì binh ít và không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con
Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên... lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân
Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn thủ Long-Hồ và Ðông Khấu là Tống Phước Hợp và
Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải bỏ Hà Tiên, chạy về cố thủ thành Nam Vang.
Năm
1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Ðàm, thống suất hai đạo
Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền. Quân
Nguyễn chiếm lại Hà Tiên và Chân Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở
lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương
Chân Lạp.
Năm
1780, vì tàu buôn bị cướp ở Hà Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân
Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên
cùng sứ thần của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Xuân... đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ
lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đầy lên
tận biên giới Miến-Thái.
Năm
1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất
Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy, đồng
thời giao hảo với chúa Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận
tuyệt.
Năm
1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn Ánh, vua Rama 1, sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp
thuyền, do hai người cháu là Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần.
Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Ðéc... đồng
thời cướp của giết người, không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho
Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng phải bó tay vì không còn binh lực để kềm chế
giặc.
Cuối
tháng chạp cùng năm, được tin quân Xiêm đã tới Ðịnh Tường, nên Long Nhưỡng tướng
quân là Nguyễn Huệ, từ Qui Nhơn đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn
quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm - Xoài Mút. Từ đó người Xiêm sợ Ðại Việt như sợ cọp.
Năm
1817, sau khi chiếm được Stung Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang
chiếm một phần cao nguyên Trung Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN
hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã
man. Tình trạng kéo dài tới thời Pháp thuộc mới chấm dứt.
3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI
ÐỊNH TƯỜNG:
* Ðịa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho):
Ðất
Ðịnh Tường thuộc dinh Phiên Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm
1731. Vào năm 1772 Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Ðạo Trường Ðồn, rồi thành
Huyện Kiến An vào năm Gia Long nguyên niên 1801.
Năm
1802 lại cải thành Dinh Trấn Ðịnh, phiên trấn Ðịnh Tường. Ðời vua Minh Mang
(1820-1840), chính thức chia đất Nam Kỳ, thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Ðịnh Tường.
Danh xưng này tồn tại tới ngày 30-4-1975 thì mất.
Riêng
hai địa danh ‘RẠCH GẦM - XOÀI MÚT’ nằm trong tỉnh Ðịnh Tường. Theo các tài liệu
cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Ðó là
một con rạch dài chừng 15 km, phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các
thôn xóm trù phú thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên rồi đổ
vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang) tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo
chân các Chúa Nguyễn vào đây khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm
cây cao, đầy các loại dã thú như voi, cọp, trăn, rắn, heo rừng, cá sấu. Nói
chung chỗ nào đêm ngày cũng có tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh
hồn, sởn óc, nhiều người vô phước bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng.
Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên vùng này là ‘ Rạch Cọp Gầm’. Về sau để dễ nhớ,
nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ
rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần mọc gie ra khỏi con rạch. Ðúng là một vị trí
chiến lược lý tưởng, để các nhà quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích,
phản kích và nhất là hỏa công trận.
Vàm
Rạch Gầm có bề ngang chừng 100 m, thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy
các loại thổ sản miệt vườn như cam, quít, ổi, chuối... Nhưng chợ Rạch Gầm nổi
tiếng xưa nay vẫn là Vú Sữa, món đặc sản bản địa, ngon - ngọt hơn bất cứ nơi nào
khác. Ðặc biệt, vú sữa lại đơm bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên
Ðán. Cũng theo tài liệu, thì xã Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Ðịnh
Tường, vào đầu thế kỷ thứ XVIII, do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng
kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn
được dân chúng điạ phượng thờ kính cho tới ngày nay.
Xoài
Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh,
rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng
giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra
ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài
trái nhỏ, hột to, cơm ít, nên muốn ăn phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng
Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa
hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại. Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên
con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình
Ðức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7 km và thành phố Mỹ Tho chừng 14 km.
* Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ):
Trong
dòng Việt sử, dù triều đại Tây Sơn hiện hữu thật ngắn ngủi (1778-1802) nhưng
qua hai chiến thắng bất hủ: Trận Thủy Chiến Rạch Gầm tiêu diệt quân Xiêm và
Xuân kỷ Dậu đại thắng quân Thanh, đã đưa tên tuổi Quang Trung - Nguyễn Huệ, lên hàng
Ðại Ðế, sánh bằng các quân vương - dũng tướng của dân tộc Hồng Lạc mọi thời như
Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lê Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng
Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn
Duyệt...
Dù
không đồng chính kiến nhưng tất cả các sử gia triều Nguyễn cũng như đọc qua các
thiên du ký của các nhà truyền giáo phương tây. Ai cũng xưng tụng ông là một
trong những thiên tài quân sự lừng lẫy của VN, có thể so sánh với các tên tuổi
như Ðại Ðế Alexander Le Grand của Hy Lạp và vua Hung Nô Attila, là những thiên
tài quân sự bách chiến bách thắng.
Giống
như các bậc danh tài trên, trong khi dùng binh vua Quang Trung luôn luôn theo đúng
binh pháp Tôn Tử - Trần Hưng Ðạo -Nguyễn Trải, đạt yếu tố bất ngờ, hành binh thần
tốc và trên hết là biết tiên liệu tình hình địch, trước khi quyết định bày binh
bố trận và tấn công. Ngoài ra để nêu gương với sĩ tốt cùng thuộc tướng dưới
quyền, ông luơn luôn xông xáo nơi trận mạc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lâm
trận đi đầu hàng quân, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Bởi vậy, tướng sĩ ai cũng
muốn hăm hở, lăn xả vào cái chết, để được đền ơn nhà trả nợ nước, xứng đáng bổn
phận làm trai nước Việt. Ngoài thiên tài quân sự, vua Quang Trung còn được các
sử gia đề cao là một nhà chính trí có thao lược, điển hình qua cách chiêu hiền đãi
sĩ, kính trọng tài năng mọi người không phân biệt bất cứ một ai. Riêng tư cách
thì hòa nhã độ lượng, trong khi đối xử với vua Lê và cái chết của chúa Trịnh
Khải.
Nói
chung từ trước tới nay, qua dòng lịch sử, VN có ba thiên tài quân sự là Hưng
Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Ðịnh Ðại Vương Lê Lợi và Ðại Ðế Quang
Trung - Nguyễn Huê. Nhưng mỗi người đều có phép hành binh riêng biệt. Với Hưng
Ðạo Vương, sở trường về lối đánh ‘Dùng ít chọi đông‘ mà binh pháp gọi là Dàn
Binh, Tướng Trận. Còn Bình Ðịnh Vương Lê Lợi thì ứng dụng phép ‘Dĩ Dật Ðãi Lao‘, tức là lối đánh du kích, làm tiêu hao lực lượng địch. Trái lại Quang Trung
Nguyễn Huệ thì luôn luôn sử dụng vận động chiến, tấn công địch trước trong tư
thế mạnh với quân số, hỏa lực, mưu kế và phương tiện.
* Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn:
Từ
năm 1627-1672, Trịnh Nguyễn đã đánh nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc
Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay), nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao
tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy
quân rất quan trọng. Theo tài liệu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa
Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600
chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên
hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ
biển VN, trong đó đặt nặng việc trang bị vũ lực trên tàu thuyền.
Theo
sử liệu, thủy quân Tây Sơn có nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng
trên 1000 chiếc. Một du khách người Anh tên John Barraw, tới thăm Ðàng Trong
vào thế kỷ XVIII, đã viết: ’Người Việt ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ
thuật đóng tàu đi biển‘. Theo tác giả, thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài
từ 50 - 80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có
mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.
Theo
Jean Baptiste Chaigeau, một võ quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh,
cho biết thủy quân Tây Sơn gồm có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo
trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9 tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại
bác loại đường kính 24. Có thủy đội chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại
bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới 40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại
bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại
bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có 300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất
cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng cánh buồm hình chữ nhật.
Về
thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số
trên 700 người. Quân Tây Sơn được trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo
mác, còn có súng điểm thương nhưng lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi
là ‘Hoả Hổ’ khi hai bên cận chiến. Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ
thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc
dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương,
mà người Việt gọi là Tháp thuyền. Ðây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có
pháo tháp trí súng đại bác. Các thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà
chèo.
* Thủy Chiến tại Rạch Gầm, Xoài Mút:
Các
sử gia hiện nay, khi viết về chiến thắng của Vua Quang Trung tại Rạch Gầm - Xoài
Mút, đều thắc mắc về việc hành quân của Tây Sơn. Ngay khi nghe hung tin, đại
quân Xiêm La gồm thủy bộ hơn 50 vạn và 300 tháp thuyền, đã chiếm gần hết các
trấn tại Nam phần. Hiện thủy quân Xiêm đã tới trấn Ðịnh Tường. Trong lúc đó
Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ còn ở tận Qui Nhơn. Vậy ngài đã cho thủy
quân từ biển vào cửa Tiểu để tới Mỹ Tho hay là vào cửa Cần Giờ, rồi men theo
dòng Vàm Cỏ Tây để tới Rạch Gầm Xoài Mút, tạo yếu tố bất ngờ, đối với quân Xiêm? Chuyện này đã không thấy các nhà sử học xưa đề cập tới, kể cả các tài liệu
của quốc sử quán triều Nguyễn.
Nhưng
về chiến tích của trận thủy chiến lịch sử, thì hiện nay vẫn còn đầy rẩy trên đất
Ðịnh Tường cũng như trong kho tàng văn chương bình dân bản địa, qua các bài hát
ru em, ca dao, tục ngữ...
"Ầu ơ, Rạch Gầm - Xoài Mút tăm tăm
xế xuống chút nữa, là vàm Mỹ Tho
bần gie đóm đậu sáng ngời
Rạch Gầm - Xoài Mút muôn đời oai linh
Chẻ tre bện sáo cho dầy
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau
Hay :
"gái Mỹ Tho mày tằm mắt phượng
"gái Mỹ Tho mày tằm mắt phượng
Giặc đến nhà, chẳng vụng hươi đao..."
Ngày
nay người dân sống ở rạch Bà Hào, kế rạch Gầm, vẫn thường hay kể những chuyện
ma quỷ xuất hiện, vào những đêm mưa to gió lớn, mà họ quả quyết, đó là ma Xiêm,
chưa được siêu thoát, dù cuộc chiến đã tàn hơn vài thế kỷ. Cũng ở vùng này, còn
có một địa danh mang tên là ‘Nghĩa địa Xiêm’ vì có nhiều thuyền tháp bị chìm,
hiện vẫn còn trơ các hàng cột ở Ðìa Ðôi (Ấp Hội), đầu cồn Phú Túc (Bến Tre).
Ngoài ra còn nhiều quân dụng của lính Xiêm bỏ lại trận địa, được tìm thấy như
súng thần công, gươm giáo, ấm, chén, nồi đồng... tại vàm Rạch Gầm.
Mùa
thu năm 1785, vin vào cớ giúp Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy sát. Vua
Xiêm Rama 1, cho 50 ngàn quân thủy bộ, tấn công VN bằng hai cánh quân. Lộ quân
bộ chiến gồm 3 vạn, từ Nam Vang vào Nam Phần. Cánh thứ hai gồm 20 ngàn thủy
quân, với 300 tháp thuyền. Cánh quân thủy này do hai người cháu của vua tên
Chiêu Sương và Chiêu Tăng thống lãnh, theo đường biển, vào cửa Rạch Giá ngày
25-7-1785. Hai đạo quân Xiêm thế mạnh như chẻ tre, lần hồi chiếm hết các dinh
trấn tại Nam phần như Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắt, Trà Ôn, Măng Thít... và
tới Ðịnh Tường. Bấy giờ đạo quân tinh nhuệ nhất của chúa Nguyễn Ánh ở Nam Phần đã
bị tan vỡ vì chúa tướng là Châu Văn Tiếp tử thương, nên không còn ai có thể cản
nổi quân Xiêm. Do đó, trên bộ cũng như dưới sông, quân Xiêm tới đâu, cũng cướp
của giết người, hãm hiếp phụ nữ Việt, tiếng than oán vọng tận trời cao, thật là
thảm tuyệt.
Tin
dữ tới Phú Xuân, nên Long Nhưỡng tướng quân được lệnh, tức tốc đem quân thủy bộ
từ Qui Nhơn vào Nam cứu viện. Lúc đó trời đang cuối đông, chỉ còn vài ngày nửa
là đón Tết Giáp Thìn 1785. Ðể có thể tiêu diệt quân Xiêm đang trong thế mạnh và
đông hơn quân ta, ông cho bày diệu kế, bằng lối mai phục rồi bất thần đánh úp
tàu giặc đang neo đầy trên sông Mỹ Tho, giữa đọan Rạch Gầm - Xoài Mút. Ðồng thời
dùng hỏa công trận, để thiêu rụi toàn bộ thủy quân Xiêm.
Mở
đầu cuộc tấn công, quân Tây Sơn dùng cùi, lá và dầu dừa trộn chung với dầu mù u
để làm bè lửa. Lại bày nghi binh kế, bằng cách lấy vỏ dừa khô rồi vẽ mặt người,
đoạn kết thành bè, thả trôi lềnh bềnh gần chỗ thuyền giặc đậu. Chính diệu kế
này, khiến cho quân Xiêm hoảng hốt, cứ ngỡ là quân Tây Sơn lặn đục thuyền, nên
các tàu liên tiếp nhả đạn cho tới hết. Ðể nắm vững tình hình trận chiến, ông
cho dựng hai chòi chỉ huy ở hai đầu sông, một tại Chùi Mong (đầu rạch Xoài
Mút), còn chòi kia ở vàm Rạch Gầm. Hai chòi chỉ huy có nhiệm vu ban lệnh tấn
công, khi thấy thuyền quân Xiêm lọt hết vào trận địa. Ngoài ra không muốn để
cho một thuyền giặc nào còn sống sót, Nguyễn Huệ cho chẻ tre bện thành sáo dầy
có cột đá hòn, để ngăn dòng Tiền Giang, tại Ấp Tây, thuộc xã Kim Sơn, ngược vàm
Rạch Gầm khoảng 1 cây số.
Khi
toàn bộ chiến thuyền của Quân Xiêm đã lọt vào khúc sông trận địa, do tín hiệu
từ hai chòi chỉ huy cấp báo, lập tức ông ban lệnh tấn công. Lúc đó giữa sông
thì lửa đốt, còn trên bờ dùng đại bác, tên và súng phóng lửa nhắm vào 300 tàu
giặc mà bắn. Vì quá bất ngờ, nên hai đại tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng 300
tháp thuyền với 20.000 quân, trở tay không kịp, lớp thì chết cháy, phần khác bị
quân Tây Sơn giết. Chiêu Sương cùng Chiêu Tăng và vài ngàn tàn quân may mắn lội
được vào bờ , cùng với quân bộ chiến, dùng đường bộ chạy về Nam Vang, rồi rút
hết về Vọng Các, vì sợ quân Tây Sơn truy sát. Từ đó người Xiêm La bỏ mộng tranh
bá đồ vương với Ðại Việt trên bán đảo Ðông Dương, đồng thời sợ người Việt hơn
cọp.
Ngày
nay nhờ đọc lại những trang sử cũ, ta mới thấy tiền nhân đã mở dựng và giữ nước
thật là gian lao cực khổ, có thể nói là người Việt đã đem máu và nước mắt của
mình, để tô bồi làm xanh thêm đất, khiên hoa cỏ mới nở rộ được khắp thôn làng, đê
cho chúng ta thênh thang tọa hưởng.
Bổng
thấy thấm thía tận cùng về lời nói của vị thánh quân Lê Thánh Tôn cách ta hằng
bao thế kỷ: ‘phải giữ gìn cẩn thận, đừng để ai lấy mất một phần sông núi của
tổ tiền để lại’. Xem như thế đủ chứng tỏ rằng tiền nhân từ thời xa xưa, đã thấy
trước dã tâm xâm lăng đồng hoá nước Việt của giặc Tàu, nên lúc nào cũng đoàn
kết để ngăn chống ngoại xâm.
Vậy
mà ngày nay cọng sản VN lại liên tiếp, hết bán đất biên giới, hải đảo, tới sang
nhượng biển vùng đánh cá ngàn đời của dân tộc trên biển đông, làm cho cơn hồng
thủy sóng thần nỗi dậy, trước sự bất lực ù lỳ của một tập đoàn cầm quyền, đang
làm nô lệ cho Trung Cộng và tất cả ngoại bang, bất chấp quốc nhục.
Ðúng
như sử gia Hoàng Xuân Hãn đã viết: ’trong dòng lịch sử Việt, khi thế nước bị
suy vi hèn yếu vì chia rẻ, thì giặc Tàu mới dám lấn đất dành biển‘.
Không
biết ngày nào cả nước mới có dịp theo sau gót ai, để đánh đuổi rợ Hồ, quang
phục đất nước, như ngày xưa dân Việt đã theo sau bóng voi của Quang Trung Ðại
Ðế vào Rạch Gầm - Xoài Mút đốt tàu giặc Xiêm hay ra Bắc Hà đánh đuổi quân Mãn
Thanh chạy về Tàu vào những ngày Tết Kỷ Dậu 1789.
"Nhà tan sống cũng lạc loài
thánh hiền sách nát đọc hoài hay sao?
biển Ðông sóng vỗ aò aò
ta nương cánh gió đi vào cõi xa
ngày mai cũng có một ngày
theo chân voi trận để vào Thăng Long"
Xóm Cồn
Những ngày cuối Chạp 2006
MƯỜNG GIANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Ðại Nam Nhất Thống Chí của Sử Quán nhà
Nguyễn
- Việt sử xứ Ðang Trong của Phan Khoang
- Lịch sử nội chiến của Tạ Chí Ðại Trường
- Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhiều tác
giả
- sách báo...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét