Tòa nhà của The World Trade Center bốc khói
Tùy bút - TẠ ƠN MẢNH ĐẤT NÀY - AMERICA, THE BEAUTIFUL
Điệp Mỹ Linh
Vừa rời chiếc xe
buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến một nhóm đàn ông lớn
tuổi, người Nga, ngồi bên trái lối đi, cạnh con kinh đào. Mỗi ông mang một nhạc
cụ nhà binh như saxophone, trumpet,
clarinet, v.v. Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng Anh ngữ
của du khách hay không mà bỗng nhiên ban nhạc đều đứng lên, cử hành Quốc Ca
Hoa-Kỳ.
Nhóm du khách và
tôi đều dừng bước, ngạc nhiên, vì đây là lãnh thổ của Nga. Du khách Mỹ để tay
phải lên lồng ngực bên trái. Nhìn các nhạc công, tôi nghĩ, có lẽ họ là những
người lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ II. Tôi cảm thấy nao nao buồn. Những
người lính già nua, yếu đuối đang cố kéo chút hơi tàn để tìm sự sống qua bản
Quốc Ca của kẻ thù xưa, vì lương hưu của cựu chiến binh Nga rất thấp!
Bản nhạc dứt. Du
khách vui vẻ lấy tiền cho vào cái xắc nhỏ được đặt trước mặt các nhạc công. Các
nhạc công ngồi xuống, đồng tấu tiếp bản America, the Beautiful. Tôi đứng lặng,
lòng đầy xúc động.
Niềm xúc động
trong tôi lần này cũng dạt dào như năm 1977, khi đứa con gái lớn của tôi,
Xuân-Nguyệt, lúc đó là học sinh lớp 8, được trao tặng giải nhất toàn tiểu bang
Arizona về bài luận văn “What Makes
America Beautiful?”
Gia đình tôi
được giúp phương tiện để đưa Xuân-Nguyệt từ Yuma đến Phoenix nhận phần thưởng
trong một buổi lễ vô cùng long trọng. Ðó là lần đầu tiên tôi nghe bản America, the Beautiful được cả hội
trường đồng ca. Tự dưng tôi khóc. Nhưng rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc
khiến lòng tôi lắng xuống. Tôi trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và
những lời chúc mừng của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc mừng của
những người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng tôi xúc động vì
thành quả của con gái tôi. Ðiều đó chỉ đúng một phần; vì, ngoài sự hãnh diện
của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn mang nặng niềm âu lo và sự
lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách mà tôi không hiểu tôi có thể vượt
qua được hay không!
Hơn 26 năm qua,
với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt được nhiều trở ngại. Những
đứa con, dâu và rể của tôi hiện đang đem tất cả khả năng và kiến thức đã học
hỏi, đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây dựng một nơi mà ai cũng hơn
một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn minh và phồn thịnh.
Riêng tôi, ngoài
sự văn minh và phồn thịnh, nước Mỹ còn có những công dân với trái tim rất vĩ đại.
Chỉ có những
trái tim vĩ đại mới có thể thực hiện những chuyến máy bay đầy thực phẩm, thuốc
men cùng những phái đoàn y tế tình nguyện sang Phi-Châu cứu đói. Chỉ có những
trái tim vỹ đại mới sáng tác và hát say sưa nhạc bản We Are The World để quyên góp hiện kim gửi sang Phi-Châu cứu đói.
Chỉ có những trái tim vĩ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sỹ, dụng cụ y tế
sang Nga cứu giúp khi lò nguyên tử của Nga, tại Chernobyl, bùng nổ. Chỉ có
những trái tim vĩ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay khẩn cấp để di
chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt-Nam vào cuối tháng Tư năm 1975.
Chỉ có những trái tim vĩ đại mới cứu giúp hết đợt di dân này đến đợt di dân
khác. Trong số triệu triệu di dân đó có gia đình tôi. Gia đình tôi xin biết ơn:
* Cựu Thiếu Tá
Thủy Quân Lục Chiến và bà Michael Z. Smith, người đã bảo trợ chúng tôi từ Camp
Pendleton. Ông bà Smith có ba người con: Michael, hiện là Ðại-Úy Không Quân
Hoa-Kỳ và cô con gái nuôi, người Nhật, Kristin cùng với bé Heather. Hiện nay
ông Smith là một mục sư ở California.
* Ông bà Collins.
Ông Collins từng tham chiến tại Việt-Nam. Ông được một gia đình Việt-Nam che
chở trong khi Việt-Cộng ruồng bắt. Ông Collins bảo vì Ông mang ơn người Việt
cho nên Ông thương và muốn giúp đỡ người Việt với tất cả nhiệt tình. May mắn
cho chúng tôi, vì chúng tôi là gia đình Việt-Nam duy nhất tại thành phố Yuma.
* Ông bà Collard,
người đã thật lòng thương yêu gia đình tôi như ruột thịt. Ông bà thường vui vẻ
và hãnh diện giới thiệu với mọi người rằng chúng tôi là con và cháu của ông bà.
Tôi không hề
biết ông Collard là một cựu chiến binh thế chiến thứ II; vì không bao giờ Ông
nhắc nhở hoặc đề cập đến cuộc chiến khốc liệt đó. Ðến khi Ông Collard qua đời,
người bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn, tôi mới biết ông Collard có mặt trong
trận Trân-Châu-Cảng. Chính ông Collard đã cứu giúp nhiều người, kể cả người
đang đọc điếu văn, rời khỏi chiến hạm... và Ông là người sau cùng.
Sự hiểu biết của
tôi về quân nhân Hoa-Kỳ trong trận Trân-Châu-Cảng hoặc Normandy chỉ căn cứ theo
sách vở và phim ảnh nên rất mơ hồ, rất hạn hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi về
sự hy sinh và lòng quả cảm của người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt-Nam
thì khá tường tận - tường tận hơn cả những cuốn sách viết về chiến tranh
Việt-Nam mà tác giả chưa bao giờ có mặt tại chiến trường Việt-Nam. Do đó, tôi
nhận thấy, dù cuộc chiến kết thúc một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng
cũng phải chấm dứt; vì máu của người Việt - cả hai miền Nam Bắc - và máu của
người Mỹ đã chan hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.
Sau khi miền Nam
bị bức tử, hạm đội Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa đã di tản hơn 30 ngàn người Việt
thoát khỏi hiểm họa Cộng-sản. Nhưng nếu không có sự hiện diện của Ðệ-Thất
Hạm-Ðội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương cũng như không có sự giúp đỡ vô điều kiện
của nhân dân Hoa-Kỳ thì số người tỵ nạn khổng lồ của chúng tôi sẽ về đâu?
Nương vào lòng
nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ biết ơn và lòng tự tin để
vươn lên.
Người Việt, qua
bao thử thách cam go, đã vươn lên, đã góp công xây đắp và bảo vệ đất nước này.
Khi cuộc chiến
Trung-Ðông bùng nổ, năm 1992, tôi đã đau buồn và lo sợ khi đưa tiễn một độc giả
trẻ và thân thiết nhất của tôi, Hải-Quân Ðại-Úy Hoàng-Quốc-Tuấn, tòng sự trên
hàng không mẫu hạm USS Independence, ra khơi, tiến về vùng lửa đạn của Persian
Gulf. Trong lá thư gửi về từ vùng Vịnh, Tuấn viết: “... Người lính Hoa-Kỳ được huấn luyện để bảo vệ Hòa-Bình chứ không
phải để gây chiến...” Theo tinh thần cao cả đó, biết bao thanh niên nam nữ
Vietnamese-American đã tốt nghiệp hoặc đang thụ huấn tại các quân trường lừng
danh của Hoa-Kỳ như West Point Academy, Naval Academy, Air Force Academy, v.
v...
Ngoài những tham
gia đáng kể về quân sự, giới trẻ Việt-Nam cũng đã và đang xây đắp đất nước này
trong tất cả mọi lãnh vực như truyền thông, giáo dục, y tế, khoa học, khoa học
không gian, v.v...
Giới trẻ
Việt-Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực của thế hệ di dân
Việt-Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ của các thành phố lớn như Los
Angeles, Orange County, San José, Houston, v.v... thì sẽ thấy: Từ những vùng
đất hoang tàn cách nay 20 năm, bây giờ đã trở thành những vùng thương mại sầm
uất do người Việt khai thác. Và trong các hãng, xưởng, văn phòng, biết bao
người mang họ Nguyễn, Lê, Trần...
Khi những đóng
góp của người Việt vào đất nước này mỗi ngày mỗi thăng tiến thì bỗng dưng sự
phá hoại từ đâu ùa đến, phủ chụp xuống ngay lòng đất nước mà gia đình tôi đã âm
thầm nhận là quê hương thứ hai.
Tin Nữu-Ước và
Hoa-Thịnh-Ðốn bị máy bay tấn công đến với tôi trong lúc tôi cùng nhóm du khách
dùng cơm trưa sau những giờ thăm viếng thành phố Minks. Tôi ngồi bất động, lòng
đầy phẫn uất. Nếu bảo rằng tôi không lo sợ thì không hẳn đúng; nhưng niềm lo sợ
trong tôi bây giờ khác hẳn với sự hãi sợ của đứa bé gái, giữa thập niên 40,
theo Cha Mẹ tản cư và thấy những chiếc máy bay mang cờ tam tài (cờ Pháp) bắn
phá những làng mạc xác xơ. Những chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể
nào di động; vì vậy nông dân không giám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản
không kịp và con người thì đói và thiếu thốn mọi bề.
Hơn hai mươi năm
sống yên lành tại miền Nam nước Việt và hơn hai mươi năm sống thanh bình trên
đất Mỹ, tôi cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa tôi, không còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa.
Nhưng không! Trên màn ảnh TV, một tòa nhà của The World Trade Center bốc khói
và một chiếc máy bay lao thẳng vào tòa nhà thứ hai. Cả hai tòa nhà lần lượt sụp
xuống trong khi niềm phẫn uất trong tôi dâng cao như những cuộn khói đen ngòm
thoát ra từ The Twin Towers. Tình cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của
tôi cách nay hơn một phần tư thế kỷ, khi Việt-Cộng pháo kích ồ ạt vào Saigon.
Là một phụ nữ
được giáo dục chỉ để nuôi con và phục tòng chồng, ngày đó, trước thảm trạng của
quê hương Việt-Nam, tôi chỉ biết viết những dòng ca ngợi tinh thần chiến đấu
can cường của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và tôn vinh lòng hy sinh vô bờ của
những người Mẹ, người vợ và người con.
Bây giờ, trước
sự đổ nát và thiệt hại nhân mạng một cách phi lý và tàn bạo tại Nữu-Ước và
Hoa-Thịnh-Ðốn, tâm hồn tôi bị chấn động mạnh và tôi muốn viết ra những ý nghĩ
thầm kín của tôi về một nơi chốn mà gia đình tôi âm thầm thọ ơn. Ý nghĩ này làm
cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều phần thích thú. Cuộc du lịch này chỉ vì sự tò
mò của tôi, muốn tìm hiểu về một nước Nga rộng lớn.
Nước Nga rộng
lớn nhưng môi người Nga không đàn hồi cho nên người Nga không biết cười. Thức
ăn của người Nga thường là những miếng thịt dai dừ, mà không ai đoán được và
cũng không ghi trong thực đơn là thịt gì, được tẩm trứng hoặc bột rồi chiên,
không mùi vị, ăn đệm với khoai tây. Lâu lắm, may ra mới có một bữa thịt gà.
Thức ăn của Mỹ như các loại kẹo, ice cream
và sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi. Tôi cũng thấy vài nhà
hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công nghệ của Nga như thủy tinh và
đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay. Hệ thống Metro của Nga tại Moscow
rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách nay nửa thế kỷ. Cứ 30 giây, (vâng, 30
giây) thì một chuyến tốc hành đến và một chuyến đi ngược lộ trình với chiếc
kia. Trong sinh hoạt hằng ngày, người Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như
người Mỹ. Những buổi trình diễn ballet,
skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì những màn vũ dân tộc và những bản
dân ca cũng khiến hồn tôi giao động bấy nhiêu. Âm hưởng dân ca của Nga mang
nặng niềm thống thiết của dân du mục.
Dân Nga rất kiêu
hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô. Khi thấy trong hình và phim
ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vỹ đại. Nhưng sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ,
không phải vì định kiến chính trị, Red Square không là gì cả, vì thiếu sự hài
hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo. Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên
triền đồi thoai thoải, diện tích khoảng một phần ba của công trường
Thiên-An-Môn. Phần cao nhất của Red Square là tòa nhà của chính phủ và mộ của
Lenin. Chân đồi bên này là ngôi nhà thờ với những chóp cao hình tròn, chạm trổ
và sơn phết rất rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là một lối đi rộng lớn. Lối đi
này, vào những dịp diễn hành để phô trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng
như thiết giáp và các cơ giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra này,
người ta xây một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho bộ hành và xe
hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng được chận lại bằng nhiều
dãy trụ xi-măng, với mục đích không cho thiết giáp và cơ giới nặng vào điện
Cẩm-Linh.
Trước điện
Cẩm-Linh, ban đêm, trong khi những cặp tình nhân trẻ thủ thỉ bên nhau những lời
mặn nồng thì những người Nga lớn tuổi lại chậm bước, lòng hướng về một thủ đô
đã đổi tên: St. Petersburg.
St. Petersburg
là một thành phố mang nặng di tích lịch sử của Nga-Hoàng. St. Petersburg không
chinh phục được cảm tình của tôi nếu không có ngôi nhà thờ cổ còn hằn vết đạn
của thời Hitler xâm lược và những bức tranh đầy sinh động của Ivan Aivazovsky,
Wassily Kandinsky, Pavel Filonov, v. v...
Những dòng sông
ở St. Petersburg đã để lại trong hồn tôi rất nhiều lưu luyến. Những dòng sông
im lìm, nhẫn nhục, chỉ biết len lõi trong từng ngõ ngách của thành phố trước sự
kiêu căng thách đố âm thầm nhưng lố bịch của từng dãy lâu đài nguy nga. Lúc
xuôi theo giòng Neva, trong khi mọi người lưu ý đến mấy chiếc cầu dựng đứng, vào
những giờ nhất định, để tàu thủy có thể đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì
tôi đã thấy trên đoạn đường sau khi vào biên giới Nga.
Trên đoạn đường
loang lở đó tôi đã thấy những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh thoảng tôi mới thấy một
chiếc xe hơi cũ thật cũ đậu dưới tàng cây, không biết xe còn xử dụng được hay
không. Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường cất một cái chòi nhỏ, mái và chung
quanh được bọc ny-lông, để trồng hoa màu. Tôi cũng thấy người dân quê canh tác
bằng tay chứ không bằng máy.
Những hình ảnh
nghèo khó này cứ theo tôi mãi. Nhưng khi đến Minsk, mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi
về quá khứ, chỉ còn trong tôi nỗi xót xa của một người vừa biết nơi mình nương
náu hơn hai mươi năm qua đang bị xâm phạm nặng nề! Từ Minsk đến Riga, tôi thấy
các thành phố đều treo cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột, dán
mắt vào TV hoặc ngóng tin tức từng giờ. Ðiều làm cho tôi xúc động nhất là hôm
14-09, lúc 12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc thành phố Helsinki của nước
Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi người đứng nghiêm, dành năm phút mặc niệm
để tưởng nhớ những nạn nhân của khủng bố tại Hoa-Kỳ.
Trong khi đứng
nghiêm tôi vẫn bị những lời tường trình của xướng ngôn viên đài truyền hình
CNN, từ chiếc TV lớn treo nơi góc phòng khánh tiết, chi phối. Tôi đau đớn, xốn
xang trong lòng như ngày xưa, năm 1968, hay tin Việt-Cộng tấn công và cưỡng
chiếm thành phố Huế, quê Ngoại của tôi.
Sau khi Huế được
quân lực Việt-Mỹ giải tỏa, tôi nôn nóng muốn trở về để nhìn sự tang thương và đổ
nát của quê Ngoại. Bây giờ, tại phi trường Helsinki đợi máy bay để sang
Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về một nơi mà tôi gọi là nhà – Home. Nhưng bà nhân viên hãng hàng không
Lufthansa, sau khi nhìn vé máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một người
da trắng, tóc màu, đã khẳng định:
- Bà có vé. Tôi
sẽ ghi tên bà vào danh sách, nhưng sẽ không có chỗ cho bà. Bà phải chờ, vì đây
là chuyến phản lực 747 đầu tiên từ Ðức vào lục địa Hoa-Kỳ.
- Vé của tôi mua
từ lâu, tại sao bây giờ tôi phải chờ? Và chờ đến bao giờ?
- Rất tiếc, tôi
không biết bà phải chờ đến bao giờ. Khi nào có chỗ chúng tôi sẽ thông báo cho
bà. Hiện tại, chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ đọng từ mấy ngày qua. Và
chuyến bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về Nữu-Ứớc, chỉ dành ưu tiên...
Không đủ kiên
nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:
- Tại sao tôi
mới rời nhà chỉ có hai tuần mà nay tôi không thể trở về, hả?
Bà ấy ngạc
nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:
- Nhà?
Tôi đáp với
giọng nghèn nghẹn như sắp khóc:
- Vâng. Nhà của
tôi.
- Cho tôi xem
thẻ thông hành.
Chỉ nhìn thoáng
qua Passport, bà ấy thay đổi thái độ
ngay:
- Vâng. Bà là
công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi chuyến bay này.
Tôi cúi xuống
xách hành lý, lòng thầm tạ ơn nước Mỹ, nơi đã cho tôi hiểu thế nào là giá trị
thực tiễn của tự do, dân chủ và công bằng. Và,
trên tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện tinh thần tự lập của
một phụ nữ./.
ĐIỆP-MỸ-LINH
http://www.diepmylinh.com
WITH LOVE AND APPRECIATION FOR AMERICA
ĐIỆP-MỸ-LINH
Translation by Merle L. Pribbenow
(While vacationing in Russia, Điệp-Mỹ-Linh, a member
of Ngay Nay’s editorial staff, watched the television in horror as the
terrorist attack on America unfolded and hijacked commercial aircraft crashed
into the World Trade Center towers in New York and the Pentagon in Washington,
D.C. This short article was written at
the airport in Frankfurt, Germany, while the author was waiting for a
connecting flight home to the United States.)
As I stepped out
of the Trafalgar Tour Company’s bus, I immediately noticed a group of old Russian
men sitting on the left side of the entranceway, next to a small canal. Each man was carrying a military musical
instrument – saxophone, trumpet, clarinet, etc.
I didn’t know whether or not they had heard the tourists speaking in
English, but suddenly this little band stood up and began playing the American
national anthem.
The entire tour
group stopped in surprise, because we were in Russia. The American tourists among us placed our
right hands over our hearts. Looking at
the band as they played, I thought to myself that they might have been very
young soldiers who fought in the Second World War. I was touched with sadness as I watched these
old, weak soldiers trying to use their failing breath to make a living by
playing the national anthem of their former enemy, because a Russian veteran’s
pension is very small.
The music
ended. The tourists smilingly dropped
money into a small bag placed in front of the musicians. The musicians sat down and began playing “America, the Beautiful.” I stood still, extremely moved.
The emotions I
was feeling were similar to those that I felt in 1977, when my oldest daughter,
Xuan-Nguyet, then in the 8th Grade, won first prize in the entire
state of Arizona for her essay, entitled “What
Makes America Beautiful?” My family
was assisted with transportation to take Xuan Nguyet from Yuma to Phoenix to
receive the award in a wonderful and solemn ceremony. That was the first time I heard the song “America, the Beautiful” as the entire
audience joined in singing. I suddenly
realized that I was crying. But then the
rhythm and the words of the song calmed my emotions. I regained my composure as I accepted hugs
and congratulations from the Americans standing near me. From the congratulations spoken by these
people whom I had never met before, I realized that they thought I was crying
tears of joy for my daughter’s success.
That was true only in part, because, in addition to a mother’s pride, my
tears also reflected my worry and homesickness as I faced future challenges
that I did not know if I could overcome.
After more than
26 years and after great sacrifices and efforts, my family has overcome many
difficulties. My children and their spouses are now devoting the abilities and
the knowledge they have gained in this nation to contribute to building a
prosperous, educated, and cultured land.
As for myself, in addition to culture and prosperity, I see that the
American people had truly enormous hearts. Only such good, great hearts would
have sent planeloads of medicine and volunteer medical personnel to save the
starving people of Africa. Only such great hearts would have written and sung a
song like “We Are the World” to raise
money to send to Africa to stop starvation. Only great hearts would have sent
doctors, pharmacists, and medical supplies to Russia to help when the Russian
reactor at Chernobyl exploded. Only great hearts would have sent emergency
flights to evacuate orphans from Vietnam in April 1975. Only great hearts would
have helped wave after wave of refugees coming to this country. Among those
millions of refugees were the members of my family. My family is truly grateful
to:
* Retired Marine
Corps Major Michael Z. Smith and his wife, who sponsored us out of the Camp
Pendelton refugee camp. Mr. and Mrs. Smith have three children: Michael,
currently a captain in the U.S. Air Force; Kristin, whom they adopted from
Japan; and the youngest girl, Heather. Mr. Smith is currently a pastor in
California.
* Mr. and Mrs.
Collins: Mr. Collins was a Vietnam veteran.
A Vietnamese family hid and supported him when the ..... were hunting
for him. Mr. Collins told us he owed a debt to the Vietnamese people, so he
loved them and wanted to help them with all his heart. This was fortunate for
us, because we were the only Vietnamese family in the city of Yuma.
* Mr. and Mrs.
Collard, who loved my family like their own. They always happily and proudly
introduced us to everyone as their own children and grandchildren. I was not
aware that Mr. Collard had been a veteran of World War II, because he never
once mentioned that terrible war. Only when Mr. Collard died and a shipmate of
his gave the eulogy at his funeral did I learn that he had been at Pearl Harbor
during the Japanese attack. Mr. Collard had saved many lives, including that of
the man who gave the eulogy, and had been the last man to leave his ship.
My knowledge
about U.S. servicemen at Pearl Harbor, Normandy, and other such battles is very
limited, because it is based only on books and movies. However, my knowledge of
the sacrifices and courage of U.S. soldiers during the Vietnam is rather vast –
much better than that of authors who never saw the war in Vietnam. I believe
that, even though the war ended precipitously and unfairly, it had to come to
an end, because so much Vietnamese blood, from both North and South Vietnam,
and American blood had been shed that it permeated every inch of the ground of
my poverty-stricken country.
After South
Vietnam expired, the South Vietnamese Navy evacuated more than 30,000
Vietnamese, rescuing them from the horrors of communism. If, however, it had
not been for the presence of the U.S. 7th Fleet in the Pacific, and
if we had not received the unconditional support and assistance of the American
people, where would this massive flood of refugees have gone? Thanks to the humanity of the American
people, we entered the United States with a spirit of gratitude and confidence
that we could recover and rebuild our lives. After untold difficulties and
challenges, the Vietnamese have recovered and have contributred to the building
and the defense of this nation.
When the Gulf
War broke out, I was worried and frightened when I said goodbye to one of my
youngest and most beloved readers, Navy Lieutenant Hoang-Quoc-Tuan, who was
serving aboard the aircraft carrier U.S.S.
Independence and sailing off to the
battlefront in the Persian Gulf. In a letter he sent me from the Gulf, Tuan
wrote, “…American servicemen are trained
to defend the United States, not to start wars.” Countless
Vietnamese-American young men and women who shared that wonderful spirit have
graduated or are now studying at famous U.S. military academies, like West
Point, the Naval Academy, the Air Force Academy, etc.
In addition to
their significant participation in military service, Vietnamese young people
have contributed and continue to build this nation in every area and facet of
society, including the media, education, medicine, science, space science, etc.
While Vietnamese
young people have made such enormous contributions, the efforts of the first
generation of refugees are no less significant. If one looks at large cities
such as Los Angeles, San Jose, Houston, etc., one will notice that areas that
twenty years ago were open land are now bustling business areas owned and
operated by Vietnamese, and if one looks at the rosters of employees of
companies, factories, and offices throughout the country, one will see countless
people with last names of Nguyen, Le, and Tran…
As contributions
to this country by Vietnamese continue to grow, suddenly sabotage and terror
struck right in the heart of the nation that my family had now taken as our
second homeland. The news about the attacks on New York and Washington using
hijacked airliners arrived as I was eating lunch with a group of tourists after
hours of sightseeing. I sat motionless; my heart filled with rage. Not that I
was not afraid, but the fear and worry I felt was completely different than the
terror of a young girl who had to flee home with her parents as they saw
strange aircrafts with tricolor markings [French aircrafts] bombing and
strafing their poor village. The aircrafts attacked anything that moved, so the
people were afraid to go out to work on the fields. The livestock were
slaughtered, leaving the people to starve and to lack even the most basic
necessities of life.
After living for
twenty-five quiet years in South Vietnam and more than twenty years of peace in
America, I thought I had nothing to fear from bombs and shells anymore. But
no! On the TV screen, one tower of the
World Trade Center belched smoke as another airplane flew straight into the
second tower. Both towers collapsed, and the anger in me grew apace with the
black columns of smoke rising from the wreckage of the Twin Towers. The pain I
felt was exactly the same as what I felt a quarter of a century before, when
the Việt-Cộng shelled Saigon. As a woman whose education had been aimed solely
at raising children and serving my husband, all I could do after I viewed the
tragedy that faced my native land of Vietnam was to write – write to praise the
courage of the soldiers of the Republic of Vietnam and to honor the
indescribable sacrifice of their mothers, their wives, and their children,
because whenever a soldier fell the hearts and the lives of those close to him
were crushed as well.
Now, as I saw
the senseless and brutal carnage and loss of life in New York and Washington
D.C., my soul was touched and I wanted to write out my private thoughts about
the place that had given us a home and to which my family is still so grateful.
Those thoughts took away most of my enjoyment of the tour, which I had only
taken out of curiosity and the desire to understand the vast country of Russia.
Russia is a vast
nation, but Russian lips are tight and they do not know how to smile and laugh.
Russian food usually consists of tough, tasteless pieces of meat of unknown
origin (even the menu does not say what kind of meat it is) that is fried with
eggs or flour and eaten with potatoes. Every once in a while they will serve
chicken. American foods, such as candy, ice cream, and different soft drinks
made by the Coca Cola Company, are sold everywhere. I saw a few McDonald’s and
Pizza Hut restaurants. Russian handicrafts, such as glassware and wood
products, are extremely beautiful, because they are all hand-made. The Russian
“Metro” subway system is very modern, even though it was built a half century
ago. Every 30 seconds (and I emphasize that this is seconds, not minutes), a
high-speed train arrives and another passes going the other direction. In their
daily activities and work Russians, unlike Americans, do not dress in casual
attire. While I was enthralled with the ballet and the ice skating performance,
the Russian folk dances and folksongs touched my soul. The music of Russian folk songs reflects the
sad, mournful fate of the nomadic peoples of the steppes.
Russians are
very proud of Red Square, because it is the symbol of the capital. When I saw
the square in photographs and in movies, I thought it must be magnificent, but
after seeing it with my own eyes, I decided, and not because of any political
prejudice, that Red Square was not as grand, because it failed to blend the
natural and the man-made together. Red Square is paved in red bricks and is
located on a gently sloping hill. The entire square covers an area only about
one third the size of Tienanmen Square in Beijing. The highest points in this area are the
government house and Lenin’s tomb. A cathedral with gaudily painted
onion-shaped towers lies at one side of the base of the hill. The other side is
just a large roadway. During parades to display its military might, Russia’s
Red Army troops, tanks, and vehicles used this roadway as an exit. Now a high
building has been erected there with an open roadway through the ground level
to allow pedestrians and small cars to pass through. At the entrance to the
other end of Red Square, the cathedral side, many cement barriers have been
erected to prevent tanks and heavy vehicles from entering the Kremlin. At night in front of the Kremlin, while young
lovers whisper sweet nothings in each other’s ears, older Russians walk with
halting steps, their thoughts turned toward a capital whose name has been
changed to St Petersburg.
St. Petersburg
is a city steeped in the history of the Russian Czars. St. Petersburg did not
win my heart with its old cathedral, still bearing the scars of the bombs and
shells of the Hitler era, or with its colorful paintings by Ivan Aivazovsky,
Wassily Kandinsky, and Pavel Filonov, but I formed a deep affection for the
rivers of St. Petersburg. The quiet, peaceful waters that stretch through every
part of the city are challenged at every turn by proud, quiet, and strangely
magnificent palaces. Sailing down the Neva River, while everyone else was
watching the drawbridges being raised to let ships pass through, I could only
think about the things I had seen along the road after crossing the Russian
border.
Along a stretch
of rough road I had seen small clusters made up of rundown huts and shacks.
Once in a while an ancient automobile could be seen parked under a tree, but I
could not tell if the car was still usable or just a piece of junk. In the
narrow yards, each house had put up a small shed, with a roof and walls covered
with plastic sheets, to grow vegetables. I saw that the rural people farmed by
hand rather than using machinery.
These scenes of
poverty stayed in my mind constantly, but when we got to Minsk, all these
images were thrust into the past, and all I felt was the inner pain of someone
who had just learned that the place where she had lived for more than twenty
years had just suffered a serious attack! From Minsk to Riga, I noticed that
all the flags in the cities were flying at half-mast, and all the local people
appeared to be worried, constantly watching their televisions or anxiously
waiting for the hourly news.
The event that
moved me the most deeply happened at noon on September 14 at the Scandic Hotel
in Helskinki, Finland, when the hotel management asked everyone to stand still
for five minutes of silence to commemorate the tragedy. While I stood there in
silence, the reports by the CNN commentator from the television on the wall of
the conference hall filled my thoughts.
I felt the same pain in my heart that I felt in 1968, when I learned
that the Việt-Cộng had attacked and captured the city of Hue, the home of my
maternal grandparents.
After American
and South Vietnamese forces regained control of Hue, I was anxious to return to
see the destruction that had touched the home of my relatives. Now, at the
Helsinki airport as I waited for a flight to Frankfurt, I was also anxious to
return to a place I now called home.
After looking at
my ticket and seeing that I was not a Caucasian, the Lufthansa employee told
me:
“You have a ticket. I will put your name on
the list, but you will not get a seat. You will have to wait, because this is
the first 747 flight from Germany to the United States.”
“I bought my
ticket a long time ago. Why do I have to wait? And how long will I have to
wait?”
“I am very sorry, but I do not know how long you
will have to wait. Whenever we have a seat, we will notify you. Right now we have a huge backup of passengers
because there have been no flights for several days. And this flight, from
Helsinki to Frankfurt and on to New York, is reserved only for...”
Too impatient to
let her finish the sentence, I interrupted,
“I left home
just two weeks ago. Can you tell me why I can’t return now?”
The woman looked
at me in surprise.
“Home?” she asked.
I replied, my
voice shaking as if I was about to cry,
“Yes, it’s my
home.”
“Let me see your passport.”
After glancing
at my passport, her entire demeanor changed.
“Yes, you are an American citizen. You will receive
priority boarding on this flight.”
I bent down to
pick up my luggage, silently saying a prayer of gratitude to the United States,
the place that had taught me the true value of freedom, democracy, and justice,
and where, in every respect, America had given me the opportunity to
demonstrate my independence as a woman./.
ĐIỆP-MỸ-LINH
https://www.diepmylinh.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét