Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Bắc Hành Tạp Lục (Tập 3) Bài 13, 14 Và 15

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - BẮC HÀNH TẠP LỤC (TẬP 3) - BÀI 13, 14 VÀ 15
Thầy Dương Sanh Sơn

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - BẮC HÀNH TẠP LỤC (TẬP 3)

Bài 13

ĐỀ ĐẠI THAN MÃ PHỤC BA MIẾU                                     題大灘馬伏波廟

Tạc thông Lĩnh đạo định viêm khư,                                           鑿通嶺道定炎墟,
Cái thế công danh tại sử thư.                                                      蓋世功名在史書.
Hướng lão đại niên căng quắc thước,                                        向老大年矜矍鑠,
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư.                                                  除衣食外盡贏餘.
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt,                                             大灘風浪留前烈,
Cổ miếu tùng sam cách cố lư.                                                    古廟松杉隔故閭.
Nhật mộ thành Tây kinh cức hạ,                                                日暮城西荊棘下,
Dâm Ðàm di hối cánh hà như.                                                   霪潭遺梅更何如.

Dịch nghĩa:

Đào đường bạt Ngũ Lĩnh để thông đường đánh nước nam ở chốn xa xôi, - Công lao và tiếng tăm hơn đời được ghi vào sử sách. - Lúc tuổi đã già vẫn còn khoe khoang mình còn vẻ lanh lẹ, mạnh khỏe! - Ngoại trừ áo cơm, hết thảy mọi thứ đều là dư thừa. (c.1-4)
Công lao của người xưa chỉ còn giữ lại nơi Đại Than sóng gió này, - Miếu thờ xưa cũ với những cây tùng, cây sam cách xa với quê hương làng cũ của ông. - Lúc này về chiều tối, dưới chân thành phía tây đầy gai góc, - Chắc hẳn ông đã quên đi những lời hối tiếc khi ở hồ Dâm Đàm. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

ĐỀ MIẾU MÃ PHỤC BA Ở ĐẠI THAN

Đánh nam bạt Lĩnh đường thông,
Tiếng tăm sách vở ghi công hơn đời.
Tuổi già khoe sức, khỏe người,
Trừ ra cơm áo thừa thôi hết cùng!
Đại Than sóng gió lưu công,
Tùng sam miếu cũ quê hương cách vời!
Thành Tây gai góc tối trời,
Quên chăng lời hối ở nơi Dâm Đàm?!

Chú thích:

** Trong bài thơ này, Nguyễn Du một lần nữa đã phê phán mạnh mẽ về công trạng của Mã Viện khi đi ngang qua thác Đại Than bên Trung Hoa.Ông đã chỉ rõ đó chỉ là một ông tướng chẳng qua chỉ là phường “Giá áo túi cơm” có khác gì đâu(câu 4).Công lao của tên tướng giặc xâm lược này chỉ còn ghi nơi những cái miếu hoang vắng như miếu vùng thác núi Đại Than mà thôi chứ chưa nói đến tội ác mà y đã gây ra cho nước Việt khi đem quân tiến đánh nước ta...
- Đại Than 大灘: tên một dòng thác lớn trên dòng chảy Minh Giang ở Quàng Tây (T.H). Đây là một trong những con đường chính Mã Viện đem quân tiến vào đánh chiếm nước ta và dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. “Chiến công” của đoàn quân Mã Viện chẳng qua là công sức xâm lược và đàn áp sự yếu thế của nước ta thời đó với thói quen xâm lược đã có từ ngàn xưa của Trung Hoa.
- tạc 鑿: đẽo, đục, bạt cho phẳng, đào.
- Lĩnh 嶺: tức năm dãy núi lớn của Trung Hoa gọi là Ngũ Lĩnh 五嶺. Sách Hán Thư 漢書 của Trung Hoa, phần Nam Việt Truyện 南粵傳 có ghi lại việc đoàn quân của Mã Viện như sau:
“Sĩ tốt đại dịch, binh bất năng du Lĩnh 士卒大疫, 兵不能隃嶺” nghĩa là: “Quan quân bị bệnh dịch nặng ,binh lính không thể vượt qua Ngũ Lĩnh”
- viêm khư 炎墟: vùng phía nam hoang vu, xa xôi (viêm thiên phương nam).Mặt khác, người Trung Hoa xưa thương xem các nước vùng biên giới xa xôi quanh họ là man di, viêm khư. Đó cách gọi khinh thường tự cho nước của họ là trung tâm văn minh, còn các nước ở vùng biên giới là man di mọi rợ ,chưa văn minh như họ...
- cái thế 蓋世: hơn đời, trùm che tất cả.
- căng 矜: khoe khoang, tự kiêu.
- quắc thước 矍鑠: già mà vẻ lanh lẹ, mạnh khỏe.
- Câu 4: mượn câu nói của em họ Mã Viện tên là Thiếu Du thường nói rằng: “Người ta sống ở đời cái ăn cái mặc cần vừa đủ thôi, cầu dư thừa sẽ chỉ làm khổ thân”.
- tiền liệt 前烈: người có công lao ở đời trước.
- sam 杉: một loại tùng lá nhỏ được dùng nhiều trong xây dựng.
- lư 閭: cổng làng, chốn quê hương, nơi nước tụ lại...
- di 遺: để lại, quên mất, rơi mất, chừa lại.
- hối 梅: hối tiếc về lỗi cũ, mù mịt, rối loạn...
- cánh 更: lại càng thêm.
- thành Tây 城西: tức phía tây kinh đô nhà Hán bên Trung Hoa, nơi có phần mộ của Mã Viện.
- Dâm Đàm 霪潭: tức Hồ Tây ở vùng thành Thăng Long nước ta, nơi Mã Viện đóng quân khi xâm chiếm nước Việt, viên tướng nhà Hán đã đóng quân nơi đây.  Trông quang cảnh đầy khí lam chướng, chim chóc bay qua hồ bị rơi xuống nước, Mã Viện đã than rằng: “ Bây giờ nghĩ lại lời Thiếu Du ( xem chú thích câu 4 ở trên) là đúng, nhưng không làm sao được!”

Bài 14

HOÀNG SÀO BINH Mà                                                         黃巢兵馬

Đại tiểu Hoa Sơn sổ lý phân,                                                     大小花山數里分,
Hoàng Sào di tích tại giang tân.                                                 黃巢遺蹟在江津.
Khởi tri Kim Thống Tần trung đế,                                             豈知金統秦中帝,
Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân.                                           乃出孫山榜外人.
Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng,                                           誤國每因拘限量,
Cùng thời tự khả biến phong vân.                                              窮時自可變風雲.
Viễn lai nghĩ vấn thiên niên sự,                                                 遠來擬問千年事,
Hang hộ dao đầu nhược bất văn.                                                舡戶搖頭若不聞.

Dịch nghĩa:

Những ngọn núi Hoa Sơn lớn nhỏ chia ra vài dặm, - Di tích của Hoàng Sào vẫn còn trên bến sông. - Biết chăng vua Kim Thống ở đất Tần, - Là người đứng ngoài bảng dưới Tôn Sơn? (c.1-4)
Có khi do sự hẹp hòi, xem xét kỹ càng (trong việc đánh giá thi cử) đã gây ra những sai lầm của việc nước? - Lúc thế cùng vẫn có thể làm thay đổi gió mây. - Từ xa đến, muốn suy nghĩ và hỏi đến chuyện ngàn năm trước, - Ông lái đò chỉ lắc đầu như chẳng nghe gì cả. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

BINH MÃ HOÀNG SÀO

Chia nhau lớn nhỏ Hoa Sơn,
Hoàng Sào dấu cũ vẫn còn bến sông.
Vua Tần Kim Thống biết không?
Tôn Sơn rốt bảng ngoài cùng là đây.
Hẹp hòi việc nước lầm sai,
Lúc cùng có thể gió mây đổi dời.
Hỏi nghìn năm chuyện xa xôi,
Lái đò đầu lắc chắc người chẳng nghe!

Chú thích:

- binh mã 兵馬: dùng chỉ những cuộc khởi nghĩa hoặc dấy binh chinh chiến.
- Hoàng Sào 黃巢: người quê ở Sơn Đông (T.H), thời nhà Đường là người học trò giỏi nhưng đi thi nhiều lần vẫn bị hỏng thi. Về sau, Hoàng Sào cầm đầu nông dân và những người nghèo dấy binh mã, khởi nghĩa ở Sơn Đông mười năm trời (875-884). Ông từng đưa quân xuống các tỉnh phía nam như Quảng Đông, Quảng tây rồi vòng lại và chiếm được Trường An lên làm vua hiệu là Kim Thống, quốc hiệu Đại Tề đóng đô trên Trường An là đất Tần cũ (881).
- Hoa Sơn 花山: là một trong năm nhọn núi(Ngũ Lĩnh- xem C.T bài 13) danh tiếng bên Trung Hoa gồm Hoa Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn, Hằng Sơn và Tung Sơn. Hoa Sơn được ví như một bông hoa, là ngọn núi đẹp nhất bên Trung Hoa.Hoa Sơn nằm trong dãy Ngũ Lĩnh hay Tần Lĩnh ở phía nam Thiểm tây ,cách Tây An khoảng 100 km ở hướng đông ...
- nãi 乃: trợ từ; là, đây này, lại là, thì ra, mà, bèn, nếu, mới là chỉ.....
- Tôn Sơn 孫山: tên một người thời Đường thi đậu nhưng nằm cuối bảng. Tôn Sơn bảng ngoại: đứng ngoài danh sách có tên Tôn Sơn tức là không được lấy đỗ.
- viễn thời 遠時: thời kỳ xa xôi về trước.
- hang hộ 舡戶: chủ thuyền, người lái đò (hang: thuyền sông).
- dao đầu 搖頭: lắc đầu, lay động, xoay đầu, quấy nhiễu...

Bài 15

VỌNG QUAN ÂM MIẾU                                                         望觀音廟

Y thuỳ tuyệt cảnh cấu đình đài,                                                  伊誰絕境構亭臺,
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai.                                                   代盡松枝墜鶴胎.
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá,                                                 石穴何年初鑿破,
Kim thân tiền dạ khước phi lai.                                                  金身削夜卻飛來.
Ðình vân xứ xứ tăng miên định,                                                停雲處處僧眠定,
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai.                                                  落口山山猿叫哀.
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp,                                         一炷檀香消慧業,
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.                                                 回頭已隔萬重崖.

Dịch nghĩa:

Ai đã là người đã làm nên những đình đài ở nơi chốn tận cùng như thế này? - Có lẽ đã chặt hết những cành cây tùng, làm cho rơi hết những bào thai của con chim hạc? - Nhớ năm nào khi hang động mới bắt đầu được đục moi - Để cho đêm hôm trước, tượng vàng đức Phật bay đến đây? (c.1-4)
Những đám mây đã dừng lại khắp chốn với vị sư đang trong giấc ngủ
yên ổn, - Lúc ngày tàn, đó đây trong các dãy núi tiếng vượn hú nghe ai oán! - Đốt một nén nhang đàn hương làm tiêu tan đi tuệ nghiệp. - Ngoảnh đầu đã thấy xa cách muôn trùng những vách núi rồi! (.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGÓNG NHÌN MIẾU QUAN ÂM

Tận cùng ai dựng đình đài?
Cành tùng chặt hết, hạc thai rơi rồi!
Năm nào hang đá khoét moi,
Tượng vàng đêm trước bay nơi chốn này.
Mây dừng, sư ngủ yên say,
Vượn gào vang núi, đó đây chiều tàn.
Nén hương: tuệ nghiệp tiêu tan,
Ngoảnh đầu xa cách muôn vàn vách non.

Chú thích:

- y 伊: đúng là, thực là, là, kia là...
- tuyệt cảnh 絕境: ở nơi tận cùng xa xôi cắt đứt với đường giao thông ( nghĩa khác: cảnh vật tuyệt đẹp).
- hạc thai 鶴胎: bào thai của con chim hạc. Thực ra, chim hạc cũng như các loài chim khác chỉ đẻ trứng để nở ra con chứ không mang thai đẻ ra con.
- tạc phá 鑿破: đục đẽo, khoét moi cho rộng ra
- kim thân 金身: thân hình cao quý như vàng, hình tượng bằng vàng của đức Phật Tổhoặc Phật Quan Thế Âm.
- đàn hương 檀香: một loại gỗ quý có hương thơm ngát được dùng để làm nhang thơm.
- tuệ nghiệp 慧業: chữ dùng trong đạo Phật: dùng sự sáng suốt trong việc tu tập để thấy rõ những nghiệp chướng cản trở sự giải thoát. Nói rộng hơn, TUỆ (Prana hay Panna) vẫn thường được gọi là Bát Nhã (pranna), đó là sự hiểu biết rốt ráo các pháp đi từ tục đế đến chân đế tiến đến Phật trí hay Nhất thiết chủng trí của chư Phật của con đường giác ngộ. Còn NGHIỆP ( chữ Phạn là Karma hay Kamma) là kết quả của các hành động có dụng ý tạo nên hành vi, lời nói và ý nghĩ (thân, khẩu, ý) kết hợp với quan hệ nhân quả trong quá khứ nối lền với hiện tại và tương lai. Thiện nghiệp sẽ sinh quả báo tốt và ác nghiệp sẽ sinh quả báo xấu. Cho nên, con đường vun trồng trí tuệ, gây tạo thiện nghiệp sẽ đạt đến giác ngộ từ hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tátvà cao hơn cả là đạt đến Nhất thiết chủng trí của hàng chư Phật....
- tiêu tuệ nghiệp 消慧業: làm tiêu tan tuệ nghiệp. Theo nhà Phật đạt đến chỗ “vô lậu học”, “vô học”, “vô sư tự ngộ” mới thực sự đạt đạo không còn phải dựa vào chiếc bè “tuệ” để qua sông nữa. Nghĩa là sự chứng ngộ giải thoát được ví như chiếc bè đã “đáo bỉ ngạn” đi đến bờ giải thoát và cần bỏ lại chiếc bè phương tiện và làm tiêu tan tuệ nghiệp hết để chứng lẽ “không”,chứng lẽ “chân như” của bậc a la hán hay bồ tát... v.v...

(Lần đến: BẮC HÀNH TẠP LỤC – Bài 16, 17 và 18)

Dương Anh Sơn




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét