Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

Đôi Dòng Nhìn Lại - Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm - P2

 


ĐÔI DÒNG NHÌN LẠI - TỔNG THỐNG VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM - P2
Quỳnh Hương

P2


Chợ trời Huỳnh thúc Kháng được hình thành từ sau 30-4-1975. Các loại hàng hóa nhiều nhất là Radio, Cassette, giàn âm thanh, máy chụp hình, quạt máy, tủ lạnh, cho đến những thứ nhỏ nhất như kim chỉ được bày bán ở bờ lề đường. Khách hàng của chợ không chỉ là người miền Bắc mà còn cả những người Đông Âu, phần lớn là Liên xô.


Để chỉ trích chế độ cộng sản , trí thức miền Bắc đặt ra câu ví:


“Ba năm đi Nga không bằng một năm đi Đức.

Một năm đi Đức không bằng một lúc ở Saigon.”


Trước tháng tư năm 1975, dân miền Bắc được xuất ngoại đi Liên xô, hay Đông Đức là phải có thần thế lắm, và hầu hết họ thường mua vật dụng ở những nước này đem về bán lấy lời để tăng nguồn lợi gia đình. Đông Đức là nước khá nhất trong các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Khi vào Saigon, họ nhìn thấy mọi thứ ở Saigon, không những hơn Nga mà còn hơn cả Đông Đức nữa.


Niềm tin vào đảng cộng sản của dân miền Bắc phai lạt dần kể từ ngày đó. Ý thức hệ cộng sản suy sụp ngay trong hàng ngũ cán bộ cũng từ ngày này.


Bức màn sắt được vén lên, không chỉ cán bộ, bộ đội trở về miền Bắc kể về đời sống nhân dân miền Nam, so với miền Bắc cao hơn gấp nhiều lần, mà nó còn chọc thủng mạng lưới tuyên truyền láo khoét của cộng sản bằng hàng trăm ngàn chiếc “đài” nhỏ bằng, hay nhỏ hơn cuốn tập, mà dân miền Bắc chưa được nhìn thấy kể từ trước 1945.


Sau khi chiếm Saigon, bộ đội, cán bộ và dân chúng đều tìm mua những chiếc Radio nhỏ đem về miền Bắc làm quà cho gia đình. Cũng do những chiếc radio này, dân miền Bắc được biết tình hình thế giới qua đài VOA và BBC vào mỗi buổi tối, nhất là vào giai đoạn Trung cộng “dạy cho Việt nam một bài học” năm 1979, sự sụp đổ của bức tường Bá Linh 9-11-1989 và sự tan rã của khối cộng sản 31-12-năm 1991.


Ông Diệm chết, sau một thời gian tướng tá giành quyền, đưa đến việc ông Thiệu chụp cơ hội nắm địa vị cao. Ông Thiệu đã độc diễn, tham nhũng lại kém tài. Trong khi đó, Tổng thống tích cực chống cộng nhất của Hoa Kỳ là cố Tổng thống Richard Nixon phải từ giã Tòa Bạch ốc ngày 9-8-1974 trong nửa nhiệm kỳ 2, vì vụ Watergate. Người kế nhiệm là Phó Tổng thống Ford, một vị Phó Tổng thống yếu kém nhất trong các Phó Tổng thống Mỹ, đã quay lưng khi Việt nam Cộng hòa mất vào tay cộng sản.


Bước ngoặt của sử Việt báo trước từ những năm đầu thập kỷ 1970.


Vào giai đoạn này, quốc tế cộng sản đang lan rộng. Thầy của cáo là Brezhnev không ngừng đổ vũ khí và cố vấn vào miền Bắc, để đẩy mạnh cuộc xâm lăng miền Nam, hòng nhuộm đỏ vùng Đông nam Á. Trong khi đó, nước đồng minh chủ yếu của miền Nam là Hoa Kỳ lại gặp thời kỳ khủng hoảng chính trị nội bộ, mà miền Nam lại lãnh đạo bởi một người yếu kém, Miền Nam mất là điều khó tránh.


BƯỚC NGOẶT CHO SỬ VIỆT:

Lúc này, phong trào chống chiến tranh lan rộng trong dân chúng Mỹ- có sự xúi giục của bộ máy tuyên truyền Liên xô- phe dân chủ trong lưỡng viện quốc hội Mỹ gây khó khăn cho Tổng thống Richard Nixon, đảng Cộng Hoà. Tình hình đang khó khăn thì Phó Tổng thống Siro Agnew, cùng liên danh với ông Nixon, bị qui tội trốn thuế tại tòa án Baltimore. Ông yêu cầu miễn tranh cãi và xin từ chức. Ông tuyên bố rằng làm như vậy để tránh một cuộc tranh đấu phân hóa tại tòa án.

Ông Gerald Ford được bổ nhiệm làm Phó Tổng thống theo hiến pháp Hoa Kỳ (không do dân bầu).


Ông Ford nguyên là dân biểu Hạ viện từ 1948, đơn vị Grand Rapids, một trong nhiều đơn vị bầu cử của Tiểu bang Michigan. Trong 25 năm làm dân biểu, thì 10 năm ông là người lãnh đạo khối thiểu số ở Hạ viện.. Phiếu bầu cho ông vào Hạ viện trong một khu-bầu-cử rất khiêm tốn, chứng tỏ ông không được dân ủng hộ mạnh mẽ, và cũng cho ta thấy khả năng lèo lái quốc gia Hoa kỳ, khả năng lèo lái phe tự do dân chủ, đối đầu với cộng sản của ông rất giới hạn, nếu không muốn nói là yếu kém.


Nhưng điều 2 của tu chính án 25 của Hiến pháp Hoa Kỳ đã qui đinh, khi ghế Phó Tổng thống dân cử bỏ trống, Tổng thống sẽ bổ nhiệm một Phó Tổng thống. Ông này nhận nhiệm vụ khi được đa số lưỡng viện quốc hội đồng ý. Chức vụ của ông Agnew được ông Ford thay thế.


Theo hiến pháp Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang có 2 Nghị sĩ, do dân trong tiểu bang bầu ra, nhiệm kỳ 6 năm, không kể dân số trong tiểu bang nhiều hay ít.


Dân biểu Hạ viện nhiệm kỳ 2 năm, do dân trong khu vực bầu cử bầu ra: 50,000 cử tri là một dân biểu. Tiểu bang nào dân số đông thì Tiểu bang đó nhiều dân biểu. Ông Ford chỉ được cử tri trong đơn vị Grand Rapids bang Michigan bầu. Michigan có dân số trên 10 triệu.


Tiếp đó, vụ cài máy nghe lén ở trụ sở đảng Dân chủ bung ra, đưa đến sự từ chức của ông Richard Nixon vào ngày 9- 8-1974, thì vị-Phó-Tổng-thống-không-được–dân- bầu là Gerald Ford, theo hiến pháp Hoa Kỳ, trở thành vị Tổng-thống-không-được-toàn -dân- bầu. Chuyện hy hữu trong lịch sử Hoa Kỳ.


Phía Việt cộng, theo lệnh của quan thầy Liên xô, trắc nghiệm khả năng của ông Ford bằng trận đánh Phước Long, trong khi ông độc diễn học làm chính trị lại không học được chút gì của cố Tổng thống Tưởng giới Thạch năm 1949, thua cộng sản ở đại lục, rút ra cố thủ Đài loan, trong đó có cả tiểu đảo Kim môn, Mả tổ, chỉ cách bờ biển Hoa lục tầm bắn đại bác 105 mm, khoảng 11km, mà những năm 1958-1959, Trung cộng đã cho bắn đại bác hàng ngàn trái mỗi ngày ra hai tiểu đảo này.


Cho tới nay, Đài loan vẫn vững về quân sự, có phản lực cơ F 16, có tầu ngầm và có cả giàn hỏa tiễn phòng không Patriot, một loại hỏa tiễn bắn hỏa tiễn, được dùng trong chiến tranh vùng vịnh Ba tư 1990, chặn hỏa tiễn SAM của Sadam bắn qua Saudi Arabia.


Về chính trị, Đài loan dù bị Hoa Lục hù dọa bằng những cuộc tập trận trên eo biển Đài loan , có kỳ kéo dài một tháng, bắn nhiều hỏa tiễn tầm xa quanh Đài loan, họ vẫn thực hiện thành công cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ngày 26- 3- 1996. Vị Tổng thống đầu tiên do dân Đài loan bầu là Lý đăng Huy.


Về kinh tế, Đài loan đã trở thành con rồng châu Á với mức bình quân một đầu người( income per capita) là 16,208usd và tỗng sản lượng quốc dân-(gross national product) bằng với lục địa Trung quốc, theo thống kê 1995 của Liên hiệp quốc, so sánh số dân 18 triệu với 1 tỷ 2.

Ngày tan rã của quốc tế cộng sản 31- 12-1991 là ngày nhân dân thế giới vui mừng. Nhưng đối với người Việt lại có suy nghĩ khác nhau. Đại đa số trong 2 triệu đảng viên cộng sản, không nói ra, nhưng trong lòng họ cũng đã thấy ra được lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản mà họ theo đuổi là không tưởng và tàn ác. Trừ một số nhỏ có quyền hành bổng lộc thì thất vọng, cố bám víu để duy trì cai trị, để vơ vét chuyến tàu chót, và cũng là để duy trì mạng sống; còn phần rất đông đảo thì đã mất niềm tin, nhưng vì sợ sệt nên im lặng chờ đợi từng ngày chủ nghĩa cộng sản tàn lụi ở Việt nam.


Đối với người Việt tự do, và những người cộng sản đã thức tỉnh như cố Trung tướng Trần Độ, các ông Nguyễn Hộ, Đỗ trung Hiếu, Hoàng minh Chính, Đỗ quế Dương, Trần Khuê, Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Hoàng Tiến, Dương thu Hương, Hà sĩ Phu, Nguyễn thanh Giang, Lê Nhân, Lê hồng Hà, Nguyễn khắc Toàn, Bùi minh Quốc, Trần mạnh Hảo, Vũ cao Quận, Trần anh Kim và vố số những người khác có một thời gian đã lầm đường theo cộng sản, nay đã bừng tỉnh, đều hân hoan vui mừng và càng ngày càng cố gắng tranh đấu để sớm đẩy lui bọn quỉ đỏ Việt cộng, đưa Việt nam tới con đường dân chủ, ngõ hầu nhân dân Việt nam không những chỉ ấm no hạnh phúc hơn, mà còn được hưởng sự tự do mọi mặt từ ngôn luận, di trú, bầu cử, ứng cử, tín ngưỡng v.v...


Không những thế, Việt nam độc lập tự do thật sự thì bọn bành trướng Bắc kinh không thể gặm dần đất và biển của Việt nam.


Trung cộng chỉ có thể đòi nợ chính phủ cộng sản Việt nam, do đảng công sản Việt nam vay để mua vũ khí lương thực trong thời kỳ chống Pháp và xâm chíêm miền nam. Trung cộng không thể nào đòi nợ một chính phủ độc lập, dân chủ, đa đảng của Việt nam. Thế nước đã rất rõ ràng, chỉ có bọn ngu muội ù lì Nông đức Mạnh, Nguyễn minh Triêt, Nguyễn tấn Dũng và đám bộ chính trị hiện nay, chỉ vì quyền lợi cá nhân, không nghĩ đến đời sống của đại đa số dân nghèo, không nghĩ đến sự toàn vẹn lãnh thổ mà ông cha ta đã dày công mở mang, xây dựng, đang tâm bán đất và biển cho Tàu cộng.


Ngoài ra, như dẫn chứng ở phần trên, ngày 26-1-2006, 46 nước thuộc châu Âu đã lên án chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết 1481 được đại đa số đại biểu của 46 quốc gia châu Âu thông qua, coi chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, khát máu, vi phạm nhân quyền hơn cả Đức quốc xã của Hitler.


Thuyết của Marx là một chủ thuyết không tưởng. Hồ chí Minh đem thuyết này về Việt nam để đánh lừa dân Việt. Đối với dân ít học, Hồ dụ khị TIẾN TỚI THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG, có nghĩa là, sau này chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thế giới đến đại đồng: LÀM THEO NĂNG LỰC, HƯỞNG THEO NHU CẦU (!) (!). Hiểu nôm na là MUỐN GÌ CÓ NẤY. Nói rõ hơn là, mỗi người là một Tề thiên đại thánh, có 72 phép biến, quay tay là có nhà, búng một ngón tay là có máy bay, xe hơi(!).


Cho tới giờ phút này, tôi không tin rằng ngay cả những Mạnh ,Triết, Dũng... hay cả những anh đã về vườn như Anh, Mười, Phiêu tin vào CÁC THỤ SỞ NHU. Nhưng bọn chúng bám vào thuyết Marx nhằm đánh lừa cấp dưới để cai trị, để vơ vét và để tránh bị giết như Ceausescu, Romania, một tên độc tài khét tiếng sắt máu, theo chủ nghĩa cộng sản, bị dân chúng nổi lên giết chết năm 1989.


Và, một tên khác là Erich Honecker Bí thư cộng sản Đông Đức, cũng là tên khát máu ra lệnh “shoot to die” (bắn chết bỏ) những người trốn qua Tây Bá Linh bằng cách vựợt bức tường Bá Linh. Hắn phải chạy trốn vào bệnh viện Hồng quân Liên xô ở Đông Bá Linh lánh nạn và được đưa qua Liên xô.


Vài tháng sau, Liên xô tan rã, Honecker được giải giao về Đức và bị ra Tòa. Khi xử án, tòa nhân đạo tha cho hắn vì hắn bị ung thư cuống họng thời kỳ cuối. Hắn đã xin qua sống ở Chile và chết sau đó hơn một năm, kết thúc cuộc đời của một tên cộng sản gian ác.


Những tên chóp bu của cộng đảng Việt Nam hiện nay nhìn lại gương này cũng không ít thấp thỏm lo lắng cho số phận bản thân.


Mới đây, Lê hồng Hà, từng làm Chánh văn phòng của Bộ công an, đã trả lời phỏng vấn của Đinh quang anh Thái, phóng viên của báo Việt Tide, được đăng trên website Danchimviet ngày 8-2-06:


“Và sau 30 năm thì tôi có nhận định là, dân trong quá trình đó đã và đang thắng. Và đảng cộng sản đang thua. Dân đã thắng trên kinh tế và trên mặt tư tưởng, nhưng dân chưa thắng trên mặt chính trị.


Nói dân thắng trên mặt kinh tế tức là thế nào?


Tức là đảng thì muốn công hữu hóa để xóa tư hữu; nhưng dân không chịu.


Đảng muốn tiến hành điều gọi là “xóa giai cấp bóc lột, xóa công thương nghiệp tư bản tư doanh; nhưng dân không chịu. Đảng muốn xóa kinh tế thị trường, để thiết lập nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung; nhưng dân không chịu.


Và sau 30 năm thì phải nói rằng là dân đã phá tan cái hệ thống hợp tác xã, đã đánh lùi cái kinh tế quốc doanh và ngày càng đẩy kinh tế quốc doanh tới chỗ phải cổ phần hóa, phải khôi phục cơ chế kinh tế thị trường, rồi từng bước xóa bỏ chính sách kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung. Như thế rõ ràng là dân thắng.”


Trong phần trả lời phỏng vấn của ông Lê hồng Hà, ngôn từ thấy nhẹ nhàng. Có thể hiểu rằng ông đang nằm trong sự kìm kẹp của Việt cộng- dù những tên công an làm nhiệm vụ theo dõi phong toả, ngày xưa đã là thuộc cấp của ông,-cho nên ông không thể không đề phòng, và cũng có thể ông sợ bị ném cứt trộn mắm tôm như cụ Hoàng minh Chính và bà Trần khải Thanh Thủy.


Nhận xét về ông Diệm không thể không nói đến vai trò của bà Trần lệ Xuân, vợ ông Nhu. Ông Nhu là một chiến lược gia sáng chói của Đệ nhất cộng hòa, lại là người không có tai tiếng gì về tham nhũng. Nhưng bà Nhu, người sáng lập phong trào Liên đới phụ nữ, đã có nhiều tai tiếng.


Bà Nhu không phải là đệ nhất phu nhân, nhưng ông Nhu, không những là em ruột ông Diệm, lại là cố vấn chính trị nhiều mưu lược, ít nhất cũng có công giúp miền Nam Việt nam, từ một nửa nước đang nát như tương vì nạn sứ quân, do chủ trương chia rẽ của thực dân Pháp, trở thành một miền Nam phồn thịnh về kinh tế, vững về quân sự, đủ khả năng đương đầu với cộng sản vào thời kỳ quốc tế cộng sản đang lên mạnh.


Bà Nhu đáng lý phải tự giữ mình để khỏi mất uy tín chồng, anh, phải biết tự chế trong việc giao du với những người trong chính phủ hay quân đội. Bà không tự kìm chế. Việc làm của bà không ít thì nhiều đưa đến sự suy giảm uy tín của ông Ngô đình Diệm, giúp cho bọn tàn ác Việt cộng vịn vào đó xúi giục dân chúng chống gia đình trị, để đưa đến cuối cùng là đổ vỡ miền Nam.


Nhưng vạch ra những khuyết điểm của bà Trần lệ Xuân, vợ ông Ngô đình Nhu, mà không nói đến công lao của bà thì cũng là điều bất công. Bà Nhu, người đề xướng ra dự thảo Luật gia đình, được quốc hội Đệ nhất Cộng hòa thảo luận và Tổng thống Ngô đình Diệm ban hành, đã đem lại quyền bình đẳng cho phụ nữ. Tình trạng “trai năm thê bẩy thiếp” từ lâu đời trong xã hội Việt nam được chấm dứt từ ngày có Luật gia đình. Phải thừa nhận vai trò của người phụ nữ Việt nam- nói riêng miền Nam- được vươn lên từ thời Đệ nhất Cộng hòa.


Cũng nên biết, ngay tại quốc gia dân chủ đầu tiên trên trái đất là Hoa Kỳ, mãi đến năm 1920, tu chính án hiến pháp 19 ban hành, người phụ nữ Hoa Kỳ mới được quyền bầu cử.


Ông Kennedy chết ngày 22-11-1963 tại Dallas, bang Texas, sau ông Diệm và ông Nhu 20 ngày. Thuyết Phật giáo thì cho là quả báo (ác giả ác báo). Nhưng cả 2, ông Kennedy và gia đình họ Ngô đều theo đạo Công giáo, không nghĩ đến quả báo.

Bà Trần lệ Xuân sống lưu vong, yên lặng nuôi con thành tài tại Pháp.


VỀ ƯU ĐIỂM

UY và ĐỨC

Như phần trên đã trình bầy, ông Diệm là một người có học thức cao về Hán tự. Ông cũng đã từng đi nhiều nước ở châu Âu, và có một thời gian dài sống tại Hoa Kỳ. Nhưng nếp nhà, và nhất là thuở thiếu thời theo Nho học, nên ông rất trọng lễ nghĩa. Trong bài viết NHỚ LẠI NHỮNG ĐIỀU KHÓ QUÊN (được dẫn chứng phần cuối của nhà văn Hà thượng Nhân) có viết: “ Tổng thống Diệm có thể có những khuyết điểm, nhưng cái tâm vì nước vì dân của ông, tôi cho là thành, cái chí của ông tôi cho là lớn. ...


Cũng trong bài ĐƯỜNG LỐI DIỆM NHU ĐƯỢC THỰC TẠI CHỨNG NGHIỆM LÀ ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG, giáo sư Tôn thất Thiện viết:


“..... Và điều quan trọng nhất mà có liên quan mật thiết đến “Cụ” và chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà nói chung, là nếu năm 1954 không có “Cụ” đứng ra lãnh đạo quốc gia thì miền Nam đã mất vào tay cộng sản.....


Cụ đã đem lại cho những quân nhân, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân thời đó sự tin tuởng và hăng hái tranh đấu nên đã giữ được miền Nam, tạo dựng lên một quốc gia có qui củ và căn bản chính trị, kinh tế vững chắc, tạo điều kiện cho Đệ Nhị Cộng Hoà tồn tại một thời gian, sau khi “Cụ” bị sát hại.


Nhưng hơn nữa, nhân dân miền Nam được tiêm nhiễm tinh thần tự do, và được đào tạo vững chắc về kinh tế, sau này có điều kiện cưỡng lại áp chế của cộng sản, dần dần buộc cộng sản phải bỏ ý đồ “cải tạo xã hội chủ nghĩa” nhân dân miền Nam.


Cuối cùng, nhờ có tình trạng đảng cộng sản tuy thắng trận, nhưng đã bị yếu đi nhiều, không còn đủ khả năng đàn áp triệt để nữa, nên những người cộng sản như Nguyễn Hộ, Trần Độ, Đỗ trung Hiếu, Lữ Phương, Hà sĩ Phu và bao nhiêu người khác nữa, mới có điều kiện lên tiếng công khai như ngày nay....”


Dưới đây là bài viết của ông Phan đức Minh, đăng trên Việt nam nhật báo cuối tuần, tại San Jose, số 4912, phát hành ngày 29-10-2005 với tựa đề TẠI SAO CÓ CUỘC ĐẢO CHÁNH LẬT ĐỔ ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM:


“Những tháng giữa năm 1960, ông Diệm với tư cách Tổng thống và là Tổng tư lệnh Quân đội Việt nam Cộng hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân khu 1,2 ,3.4 và Quân khu Thủ đô, để nói chuyện với các sĩ quan thuộc các Quân Binh chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng: Người Mỹ muốn đổ các đơn vị tác chiến (Combatant Units) của họ vào lãnh thổ Nam Việt nam đề đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến truờng này...


Tại hội truờng Quân khu 1, Đà nẵng, trước mặt rất đông sĩ quan: Cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, ông Diệm đã nói rõ ý chí của ông là, nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Việt nam, mà chỉ chấp nhận vai trò của người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân đội Việt nam Cộng hoà.


Ông nói: “Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện của Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế của người Mỹ, nhưng chúng ta không cần để cho người Mỹ chiến đấu thay thế chúng ta trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước này. Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh của vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn của nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng thống bù nhìn và anh em, các sĩ quan sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc...”


Ông nói thật nhiều với tất cả tấm lòng và trái tim của ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các sĩ quan Quân đội Việt nam Cộng hoà đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến trường khắp các vùng chiến thuật, hãy cùng ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bất chấp mọi áp lực, bất cứ từ đâu đến.


Những cánh tay dơ lên. Những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội trưòng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1-Quân khu 1: “Quyết tâm ủng hộ Tổng thống ! Quyết tâm giữ vững lập trường chiến đấu của TT để bảo vệ tổ quốc!”


Lúc đó tôi chỉ là một chuẩn uý hiện dịch.........


Tôi nhìn các sĩ quan đàn anh đứng chung quanh hình như ai nấy đều cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng thống khả kính và can đảm của mình. Phải thành thực mà công nhận rằng vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo của ông Diệm, quân đội ra quân đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ quan ra Sĩ quan, chứ không có hổ lốn, bát nháo như một số khá đông của những thời gian sau này, sau khi ông Diệm không còn nữa...


Tôi không phải là người công giáo như ông Diệm, mà chỉ là quân nhân hiện dịch thuần túy, nhưng cũng thấy mắt mình nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho ông, cũng như cho đất nước này...”


Ngày 19-6-1960, đại sứ Mỹ tại Saigon Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại truởng Mỹ Christian Herter ở Hoa thinh Đốn 1 điện văn mật, thông báo tình hình Saigon: Có thể có một cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền của ông Diệm; trong khi đó, ở nông thôn, hoạt động của cộng sản gia tăng mạnh mẽ...


Phần cuối bản văn kết thúc : “ Nếu thế đứng của ông Diệm tiếp tục giảm sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh tại đây nữa thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ cần tính đến những phương cách hành động và những người lãnh đạo khác, hầu đạt đến mục tiêu của chúng ta.... (If Diem’s positon in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives)


Trong bài MỘT VỊ TỪ MẪU của giáo sư Nguyễn xuân Vinh, (người Việt nam đầu tiên được vào làm trong Cơ quan Không gian Hoa Kỳ NASA, trong công việc tính quĩ đạo để phóng phi thuyền, ông cũng vinh dự được giới thiệu vào Hàn Lâm Viện Quốc gia Hàng không và Không gian của Pháp. Trước ngày đi du học, ông đã từng làm Tư lệnh Không Quân QLVNCH).


Ông viết: ..... ”Lúc tôi tới Dinh Độc lập, vào phòng ngủ của Tổng thống, là nơi cụ thường ngồi ở một ghế bành lớn để hỏi công việc. Tôi đã thấy có ông Nguyễn đình Thuần, lúc đó là Bộ trưởng Phủ Tổng thống và ông Hùynh hữu Nghĩa, Bộ trưởng Bộ Lao động. Ngoài ra còn có ông Hà Di, một nhiếp ảnh gia rất được Tổng thống thương yêu, và thường được đi theo chụp ảnh mỗi khi cụ công du. Thấy tôi vào, cụ nói mấy câu đại ý là tôi không được đi cùng để ra Huế dự lễ đại thọ của cụ cố, thân mẫu của Tổng thống, nên cụ gọi tới để cho xem những phim ảnh chụp.


Những ảnh mẫu được ông Hà Di chiếu cho mọi người cùng coi trên màn ảnh đặt ở cuối buồng theo thứ tự diễn tiến của buổi lễ. Thân mẫu của Tổng thống ngồi ở một ghế bành, mặc áo mầu đỏ, tuy trông mệt mỏi, nhưng nét mặt còn tươi sáng. Một tấm ảnh làm tôi chú ý là lúc cả 5 người con trai của cụ cố thân mẫu là Đức Giám mục Ngô đình Thục, Tổng thống Ngô đình Diệm và các ông Ngô đình Nhu, Ngô đình Luyện và Ngô đình Cẩn đều mặc áo thụng, quì rạp đầu làm lễ trước bà từ mẫu. Trông cảnh này thật là cảm động và là sự việc mấy trăm năm mới thấy có một lần ở nước mình, vì ít khi có bà mẹ nào sinh ra những người con mà lại đứng đầu cả bên đời và bên đạo.....”


Những dòng viết trên đã chứng minh lòng hiếu thảo của ông Diệm. Dù là Tổng thống, ông vẫn “quì rạp đầu trước mặt mẹ”. Không như Hồ chí Minh, khi nắm quyền Chủ tịch nước rồi, trên 10 năm sau mới trở lại quê nhà.


Ông Diệm được Quốc trưởng Bảo đại bổ nhiệm làm Thủ tướng, trong lúc Pháp chuẩn bị rút quân theo Hiệp định Geneve 20-7-1954. Tình hình mọi mặt ở miền Nam đều nát bét.


Về chính trị và Giáo dục: Ông Diệm đưa miền Nam Việt nam từ một tình trạng sứ quân, với những thành phần võ trang cai quản từng vùng, dựa vào tôn giáo như Cao đài, Hòa hảo và vùng Saigon-Chợ lớn là Bình xuyên của Bẩy Viễn, trở thành một miền Nam Việt nam có tự do, dân chủ pháp trị, tương tự như của Hoa Kỳ, trước cả Singapore, Nam Hàn, Thái Lan, Phi luật tân, Đài Loan.


Chính phủ Việt nam Cộng hòa chia làm 3 ngành: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Bầu Quốc hội lập hiến để thảo luận và thông qua hiến pháp. Ngành lập pháp soạn thảo những bộ luật mới. Mở rộng trường luật để đào tạo những người có khả năng trong ngành tư pháp. Mở Học viện Quốc gia hành chánh để đào tạo các công chức cao cấp trong guồng máy cai trị. Soạn thảo các chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt, thay thế các chương trình tiếng Pháp trong các trường Y, Nha, Dược, Bách Khoa, Luật Khoa.


Từ trước năm 1954. các trường ở mìên Nam từ tiểu học trở lên đều học tiếng Pháp, vì miền Nam là thuộc địa của thực dân Pháp.


Ông Diệm cũng là người đã cho thiết lập thêm Viện Đại học Huế, rồi Đại học Đà Lạt, mặc dầu thời kỳ đó đã bị một số giáo sư có đầu óc thủ cựu của miền Nam cản trở.


Mời bạn đọc theo dõi phần trích đoạn dưới đây của giáo sư Nguyễn ly Châu, trong bài MỘT CÔNG TRÌNH VĂN HÓA CỦA TỔNG TỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM:


“...Tổng thống Ngô đình Diệm đã rất hết lòng trong việc thành lập Viện Đại học Huế, ông muốn mở mang Viện Đại học Huế theo tiêu chuẩn Đại học ngoại quốc mà ông đã có dịp đi qua....Sự quan tâm đặc biệt này đã làm cho một số giới chức Đại học Saigon bất bình, nhất là khi ông ra thăm Đại học Huế và đưa ra ý kiến mở thêm Đại học Y khoa.


Giới Y khoa Saigon được tham khảo ý kiến, đã lên tiếng bác bỏ dự án lập thêm Đại học Y khoa, với lý luận: Cả nước Việt nam chỉ cần có một Đại học Y khoa là đủ lắm rồi....


Sau 38 năm ngày thành lập (tính đến năm 1995), Viện Đại học Huế, một Đại học công lập thứ 2 của quốc gia Việt nam đã góp phần hữu hiệu vào công cuộc phát huy văn hóa và đào tạo nhân tài cần thíêt cho việc xây dựng đất nước về mọi mặt, nhân dân miền Trung và đất nước Việt nam thành kính biết ơn những người sáng lập....”


Về quân sự: Khi ông Diệm được vua Bảo Đại trao phó giữ chức Thủ tướng, quân đội miền Nam Việt nam chưa hình thành.


Sau hiệp định Geneve tháng 7- 1954, phía Việt cộng ở miền Bắc, ngoài thành phần cố vấn Liên sô, Trung cộng, chúng đã tổ chức quân đội lên đến cấp sư đoàn và chia ra các quân khu. Đó là chưa kể nhiều sư đoàn và hàng chục ngàn cố vấn quân sự của Tàu cộng còn đóng tại miền bắc Bắc phần, sau khi chúng trực tiếp đánh vào đồn binh Pháp tại Điện biên.


Bọn cố vấn Tàu ở lại để dạy cho bọn đầu trâu mặt ngựa cộng sản Việt nam cách thức “thăm bần, vấn khổ”, cách thức phân loại “địa chủ, phú nông, trí thức, tư sản” để đấu tố giết người. Cán bộ cố vấn Tàu hưởng chế độ “tiểu táo”, tức là Việt cộng chỉ định, cứ một cố vấn Tàu thì một bộ đội Việt nam hầu, nấu ăn và hầu hạ, phục dịch cho quan thầy cố vấn. Đích thực là quân hầu, nhưng Việt cộng dùng chữ nghĩa cho giảm bớt tủi nhục của người hầu này bằng từ ngữ “anh nuôi”.


Trong khi đó thì miền Nam chỉ có cấp tiểu đoàn, do quân đội Pháp trước khi rút lui trao lại, và một đơn vị Ngự lâm quân, tương đương 1 trung đoàn.


Song song với việc ổn định guồng máy cai trị, ông Diệm cho thành lập các Trung tâm huấn luyện quân sự để đào tạo binh sĩ cùng hạ sĩ quan, đồng thời mở rộng Trường võ bị quốc gia Đà Lạt và Trường sĩ quan trừ bị Thủ đức với mục đích tăng cường sĩ quan hiện dịch và trừ bị để đối phó với âm mưu xâm lược của Việt cộng.


Ông còn cho lập các Binh chủng chuyên môn để yểm trợ các đơn vị như Truyền tin, Công binh, Quân nhu, Quận cụ, Quân y. Chỉ trong 5 năm, miền Nam đã chia ra 4 vùng chíên thuật và mỗi vùng có một Quân đoàn.


Để yểm trợ các nơi trọng yếu, ông cho thành lập các đơn vị Tổng trừ bị như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, Biệt đông quân, Lực lượng đặc biệt, Thiết giáp, Công binh và Pháo binh. Song song với việc phát triển bộ binh, ông cũng cho thành lập các quân chủng Không quân, Hải quân. Ngoài ra còn lập Địa phương quân để đảm trách an ninh diện địa.


Tổng thống Ngô đình Diệm không những là người có tài về kinh tế, ông lại am hiểu về chiến lược quân sự. Trong bài viết khác của ông Tôn thất Đính, một tướng lãnh đã lầm lỡ theo đám đảo chánh, và nay đã ăn năn, như trình bày ở phần trên. Ông viết loạt bài tự sự Tình Sông Nghĩa Biển.


Ông viết:

“Cuộc nói chuyện giữa Tổng thống, ông cố vấn Ngô đình Nhu và tôi về chiến lược Cao nguyên đã diễn ra trong bầu không khí vừa trầm lặng, vừa thân mật... Nhìn vào bản đồ, Tổng thống Diệm nói như tiên tri:...


Nếu tui mà mở cuộc tấn công thì tui sẽ đánh vào Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, tuy là cái đầu con Rồng nhưng cắt cái bụng thì con Rồng cũng chết, mà lại dễ chết nữa! Rồi từ đó, ép cả 2 phía đầu đuôi. Kontum, Quảng đức và Cao nguyên sẽ lọt vào tay tui.


Thấy địa lý Trường sơn, tui nghĩ Ban Mê Thuột là chỗ nhược, nên tui quyết định đưa các cơ quan Vùng về đây là để tạo ra một vị thế kiên cố, có thể thoát qua được cái nhược đó mà bảo vệ miền Nam của mình. Vì nếu sau ni, cộng sản nó đánh mình, thì chúng sẽ thử ở Kontum trước và sau đó dồn toàn lực đánh vào Ban Mê Thuột, nếu chúng nó nghĩ mình thiếu phòng vệ ở đó. Vì rứa, tuy mình dời quân khu về Pleiku để Mỹ hỗ trợ cho xây cái Đầu Rồng, mình phải dốc lực bảo vệ cái bụng, khúc xương sống ở đây, để khỏi bị đánh gẫy.


Sau đó Tổng thống Diệm còn nói:


“Đính cần chi thì nói tui cho, mọi việc luôn luôn bàn với chú Nhu cho kỹ, kẻo một khi Mỹ dính vào nhiều quá thì mình khó gỡ cho ra! Tuy nói là đồng minh, nhưng ai thiệt bụng với mình, họ luôn luôn theo quyền lợi của họ. Đất nước mình thì mình phải lo. Mỹ thì cũng như Tây vì họ là người phương Tây, không hiểu nước mình và người mình bằng mình được! Nên tui nhắc là mình phải cẩn thận trong mọi kế hoạch hợp tác. Để cho họ nhiều quyền quá thì họ cai trị mình, còn chi là độc lập của mình.”


Ông Nhu tiếp lời:


“Như Đính thấy, từ khi Mỹ chi viện cho mình đến nay, họ đều sắp đặt đưa dần các cố vấn vào trong các cơ quan chính phủ. Có khác chi Tây mô, dù là dưới các danh xưng khác nhau! Les mêmes dénominateurs (cùng mẫu số chung), mặc dầu quyền lợi khác nhau, cách chi viện khác nhau, nhưng cũng chỉ là một lối cai trị...Đại sứ Mỹ cũng chỉ là một Thái thú như Tàu, một thứ Toàn quyền như Tây...Không phải chỉ vì cộng sản Bắc Việt; vì cộng sản Tàu mà Mỹ đang có chủ trương không để chúng tràn xuống Đông Nam Á, Vì thế, Việt nam có thể là một chiến trường tương lai để Mỹ ngăn chặn sự bành trướng của Bắc kinh.”

---------------

Về kinh tế: 90% dân số Việt nam sống về nông nghiệp.


Tiếp nhận chính quyền, ông Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư để lo cho gần 1 triệu người lánh nạn cộng sản từ miền Bắc vào Nam tìm tự do. Sau 2 năm ổn định việc định cư 1 triệu người miền bắc, ông Diệm đổi Phủ Tổng Ủy Di Cư thành Phủ Tổng Ủy Dinh Điền, với nhiệm vụ khai khẩn đất hoang, chủ yếu là Cao nguyên Trung phần; Cái sắn và Mộc hóa ở miền Tây.


Miền Nam đất rộng, dân thưa hơn miền Bắc. Đồng bằng sông Cửu long phì nhiêu, nhưng ruộng đất phần lớn nằm trong tay đại điền chủ người Pháp và một số ít người Việt. Tổng thống Ngô đình Diệm đã áp dụng chính sách “Cải cách điền địa”, trưng mua ruộng đất của các đìền chủ lớn, phân phát cho nông dân. Những điền chủ nhượng đất nhận được trái phiếu, họ có thể dùng trái phiếu này đầu tư vào các xí nghiệp ở thành phố.


Phía bắc Saigon, xa lộ Saigon Biên hòa được kiến thiết. Tuy là so với ngoại quốc ngày nay, quãng đường 32 km này chẳng thấm vào đâu. Nhưng vào cuối thập kỷ 50 thế kỷ 20, đây là đoạn đường tân tiến nhất của miền Nam Việt Nam ở vào thời kỳ ấy.


Hai bên đường rất nhiều các nhà máy được hình thành. Khu kỹ nghệ được thành lập, chạy dài từ Thủ đức thuộc tỉnh Gia định, tới quận Châu thành của tỉnh Biên Hòa. Nhà máy xi măng Hà Tiên, được thiết lập ở huyện Hà Tiên, thuộc tỉnh Rạch giá, sau đổi là Kiên Giang. Nhà máy Thủy tinh, nhà máy Giấy và các nhà máy Dệt như Vinatexco, Vimytex v..v..lần lượt được dựng lên. Ngoài ra còn có thể kể thêm đoạn đường cửa ngõ về phía nam của Saigon và đoạn đường về Hóc môn cũng xây nhiều nhà máy như nhà máy Dệt, nhà máy làm Phân bón.


Song song với việc thiết lập các khu công nghiệp phía nam và bắc Saigon, ông Diệm còn cho thiết lập nhà máy Thủy điện Đa Nhim để có đủ điện cung cấp cho Saigon và các nhà máy mới thiết lập.


Khác hẳn với chính sách cướp đất, giết người của bọn cộng sản áp dụng ở miền Bắc từ 1953- đến 1958, mà chúng gọi là cải-cách-ruộng-đất, một chính sách dã man tàn bạo nhất trong lịch sử Việt nam và cả thế giới, mà lão Hồ dâm học từ Liên xô và Tàu cộng để áp dụng vào miền Bắc Việt nam, giết một nửa triệu người.


Ông Diệm cũng cho lập các Khu dinh điền, Khu trù mật ở nhiều nơi để đưa dân ở các vùng nghèo nàn miền Trung tới Cao nguyên Trung phần hay miền Tây lập nghiệp. Những gia đình đến sinh sống tại các Khu Dinh Điền hay Khu Trù Mật, mỗi gia đình cũng được cấp 3 mẫu tây (hectare= 30.000m2) đất, kèm theo bằng khoán để làm chủ mảnh đất, tương tự như những gia đình di cư lánh nạn cộng sản tàn ác 1954-1955, đi định cư tại Cái Sắn, Phương Lâm, Hố Nai…..Ngoài 3 hectare đất, họ còn được cấp phát gạo và tiền trong vòng 6 tháng để có thể sinh sống trong khi chưa thu hoạch vụ đầu.


So sánh giữa Khu dinh điền của Việt nam Cộng hòa và Khu kinh tế mới của Việt cộng ta thấy là hai thái cực.


Những người đi kinh-tế-mới bỏ nhà cửa ở thành phố, nhất là Saigon, bị đem con bỏ chợ. Nhà cầm quyền cộng sản không giúp đỡ họ, hoặc nếu có chỉ là chút ít, cho nên sau trên một năm đi kinh-tế-mới(!), họ lại lếch thếch kéo nhau về Saigon, nằm ở vỉa hè trên các đoạn đường Lý thái Tổ, Trần quốc Toản, Lý thường Kiệt......và hàng ngàn người đã chăng vải nhựa, chiếu rách, dài theo bờ tường, trong và ngoài Trường đua Phú thọ.


Khu Dinh điền thời Đệ nhất Cộng hoà đặt dưới quyền điều hành của Phủ Tổng Ủy Dinh Điền. Nha Nông cụ cơ giới thuộc Phủ Tổng ủy Dinh điền chịu trách nhiệm ủi đất phân lô, cấp phát tiền gạo 6 tháng cho dân đến lập nghiệp. Những vùng Cái sắn, Hố nai, Phương lâm, Hỏa lựu, Vị thanh, Quảng tín....là những vùng được thành lập từ thời Đệ nhất Cộng hoà và trở thành nơi sầm uất.


Vị thanh sau này là tỉnh lỵ Chương thiện, và Quảng tín trở thành tỉnh mới lấy tên từ Khu trù mật.


Trong khi dân đang an cư lạc nghiệp, bọn Việt cộng đã khuấy phá, đốt một số xã dinh điền ở các vùng thuộc tỉnh Pleiku, Ban mê thuột, Phước long và Tây ninh.


Khu kinh tế mới của Việt cộng ngày nay nhắc tới còn thấy hãi hùng. Việt cộng lập nên kinh tế mới nhắm mục đích lùa dân ra khỏi thành phố một cách man rợ để huỷ diệt giai cấp và con người tư sản(!), theo kinh điển tàn ác nhất thế gian của Marx, mà Cáo và bọn cán bộ cộng sản Việt nam áp dụng. Riêng Saigon, 1 triệu dân bị lùa khỏi thành phố đi kinh tế mới, một năm sau khi chiếm đuợc miền Nam.


Bắt nguồn từ gieo rắc hận thù giai cấp, bọn ngu muội Việt cộng cho rằng người dân thành thị chỉ ăn chơi, không sản xuất. Lớp cán ngố từ trên xuống dưới nghĩ đơn giản rằng sản xuất chỉ có nghĩa là cày cuốc, thế nên chúng đày dân vào rừng là làm ra lúa gạo (!). Đây là sự phí phạm lao động to lớn, do sự ngu muội của lãnh tụ cộng sản Việt nam vì chúng vô học. Nhưng đuổi dân ra khỏi thành phố, Việt cộng còn có mục đích cướp nhà để chia cho cán bộ, diệt giai cấp tư sản. Tội ác của Việt cộng kể không thể xiết.


Marx là một tên điên, chủ trương kinh tế tập trung. Bất cứ nước nào cai trị theo đường lối của Marx đều nghèo đói, thiếu đồ tiêu dùng, do thất bại cả công nghiệp lẫn nông nghiệp. Dân chúng ở những nước cai trị theo đuờng lối cộng sản đều bị đói, bị o ép về chính trị và hoàn toàn không có tự do. Vì chủ trương kinh tế tập trung nên tư liệu sản xuất như trâu bò, ruộng đất....đều nằm trong tay nhà nước. Cái câu “nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý” (!) do Việt cộng đặt ra để đánh lừa dân thật khôi hài.


Nông dân làm lụng vất vả cơm không đủ no thì bọn cán bộ hợp tác xã phè phỡn. Dân chúng miền bắc truyền nhau câu vè nguyền rủa cán bộ:


“Mỗi người làm việc bằng hai

Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe

Mỗi người làm việc bằng ba

Để cho quản trị xây nhà xây sân.


Hoặc là câu:


Giầu thủ kho, no thủ trưởng


Khi hiểu ra mình bị bóc lột nặng nề còn hơn thời phong kiến cổ xưa, họ bắt đầu lãn công. Các cụ ta có câu “cha chung không ai khóc” thật đúng cho trường hợp này.


Kinh tế tập trung (hợp tác xã nông nghiệp) đưa đến kết quả năng xuất xuống trầm trọng và riêng Việt nam, cái gì phải đến đã đến: năm 1987, từ Thanh hoá trở ra bị thiếu gạo. Các tỉnh Thanh hoá, Quảng ninh, Nghệ an có hàng ngàn người chết đói.


Bọn cầm quyền Thanh hoá phải dùng từng đoàn xe tải chở hàng chục ngàn “ bang chúng cái bang” ra các thành phố, thị xã miền Bắc để đi ăn mày tập thể. Chuyện khó tin mà có thật. Đó là điều mà Lê Duẩn và đồng bọn huênh hoang “Việt nam đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội ..”(!) . Như vậy “đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội” của Lê Duẩn và đồng bọn là làm cho dân miền Bắc Việt nam đi từ thiếu ăn đến chết đói.


Rất tiếc vào thời điểm này các ký giả của Washington Post, AP, Mercury News, New York Times, AFP, CNN, BBC, NBC.....chưa được phép vào Hanoi, nên sự thật chỉ được phanh phui trong nuớc khi bài ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng gia Lộc, và tiếp đó bài ký “ Sự thật về Thanh Hóa”, của Phùng thanh Vân, hai người gốc Thanh Hoá, được đăng trên bán nguyệt san Văn Nghệ ở Hanoi.


(Sau khi bài này được đăng, làm rung động cả nước, thì Phùng gia Lộc bị truy lùng, và phải trốn chui trốn lủi. Mấy năm sau do thiếu đói, bệnh tật không tiền thuốc nên đã chết. Phùng thanh Vân cũng chung số phận, nhưng sau không rõ còn sống hay đã đi theo Phùng gia Lộc.)


Trong lịch sử Việt nam đã có 2 nạn đói.


Nạn đói thứ nhất xẩy ra năm 1945, còn gọi là nạn đói Ất dậu, do quân phiệt Nhật bắt ép dân dẹp bỏ Lúa để trồng Đay nạp cho chúng, gây ra tình trạng thiếu hụt đất trồng lúa. Không những thế, chúng còn bắt dân phải nạp thóc –thời ấy gọi là thóc tạ- để nuôi quân Nhật, làm chết hơn 1 triệu người từ Nghệ an, Thanh hoá ra tới các tỉnh thuộc vựa lúa đồng bằng sông Hồng.


Người viết bài này mỗi ngày đi bộ quãng đường 5 kilometres từ nhà tới trường tiểu học huyện, đã chứng kiến cảnh người chết đói nằm bên lề tỉnh lộ. Mỗi ngày ít nhất 1 người mà nhiều nhất lên đến trên 10 người. Dân làng lân cận vì vừa sợ dịch bệnh, vừa không chịu nổi mùi hối thối của xác người chết, nên đã phải dùng chiếu để bó, vì nhiều xác quá không đủ quan tài và đào lỗ nông, sát vệ đường rồi lấp đất sơ sài. Nạn chết đói kéo dài từ cuối tháng 2 âm lịch đến vụ gặt đầu tháng 5.


Nạn đói thứ hai chết mấy ngàn người như đã trình bày ở trên, là do Việt cộng cai trị theo đường lối xã hội chủ nghĩa của Marx : kinh tế tập trung. Nhất là sau khi chiếm được miền Nam, Lê Duẩn, một tên ngu muội huênh hoang “nước Việt Nam tiến thẳng lên xã hôi chủ nghĩa. (!)


Sự thất bại tất yếu xẩy ra vì “cha chung không ai khóc”, là câu cửa miệng của người Việt từ thời xa xưa. Nhưng cũng còn phải nói rõ hơn là vì sự tàn bạo ở những cán bộ cộng sản. (bạn đọc muốn rõ hơn, tìm đọc “Cái đêm hôm ấy đêm gì” và ‘Sự thật về Thanh Hóa” trên một vài trang web)


Dân kinh tế mới không đuợc cấp gạo tiền như thời Đệ nhất Cộng hoà, nên chỉ vài tháng hoặc nhiều lắm là hơn 1 năm sau, họ lại lếch thếch kéo về thành phố. Khi trở về, nhà của họ đã bị bọn cán bộ chiếm ngụ, nên họ phải nằm ở viả hè.


Bạn đọc hiện đang sống ở các nước tự do, trước kia sống ở Saigon, hay các thành phố lân cận, từ năm 1981 chắc đã nhìn thấy cảnh dân kinh tế mới chăng bạt bằng chiếu, bằng vải nhựa, chung quanh Trường đua Phú thọ và dài theo đường Trần quốc Toản, Lý thái Tổ, Nguyễn văn Thoại-sau naỳ đổi là Lý thường Kiệt- Cuộc sống của họ thật thê thảm.


Theo thống kê của Liên hiệp quốc, sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc, lợi tức bình quân một đầu người của Nam Hàn chỉ là dưới 70 usd, mà ngày nay ngang hàng Singapore, bình quân đầu nguời một năm là 23,636 usd. Trong khi Bắc Hàn còn cai trị theo đường lối Marx sắt máu thì bình quân một đầu người một năm dưới mức 400usd. Hàng năm vẫn thiếu lương thực nên phải nhận viện trợ gạo từ Nam Hàn và Nhật Bản.


Nước cai trị theo kiểu nửa vời, siù siù ển ển, tả pí lù như Việt Nam “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” thì khá hơn Bắc Hàn một chút, được 600usd một đầu người một năm.


Nhưng đó là chia đều, còn thực tế những nông dân ở miền Bắc Việt nam, đại đa số chỉ trông vào phần ruộng được chia. Dân đông, đất ít, mỗi người dân miền Bắc Việt Nam chỉ được chia khoảng gần 400m vuông, tùy theo thôn xã, có xã dân đông, đất ít thì mỗi người chỉ được dưới 1 sào miền Bắc. Một sào là 360m 2. (Miền Nam 1. 000m 2 là một Công hay 1/ 10 của mẫu tây) Do đó một nguời một năm không hơn bình quân một đầu người của Nam Hàn sau nội chiến kết thúc.


Nếu bỏ khúc đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà thay vào cái đuôi “theo chủ nghĩa tư bản” thì chỉ vài ba năm là khấm khá, dù không bằng Singapore , Nam Hàn, nhưng chắc chắn là hơn Trung cộng.


Xã hội chủ nghĩa là thuyết của Marx : Kinh tế tập trung. Mọi phương tịện sản xuất nằm trong tay nhà nước. Nhưng nhà nước là của đảng, vậy thì ruộng đất là nằm trong tay đảng .Cai trị theo chủ nghĩa của Marx kinh tế tập trung cho nên miền Bắc Việt nam từ năm 1945, dân chúng ăn không đủ no, đồ tiêu dùng quá thiếu. Nhưng bọn cầm quyền cộng sản giải thích rằng, dân thiếu thốn vì kháng chiến chống Pháp gần 10 năm. Từ năm 1954, đến 1975, dân Bắc thiếu thốn thì chúng phịa ra là phải cứu đói miền Nam, vì dân miền Nam bị “Mỹ bóc nột” (!).


Khi chiếm được miền Nam rồi, bọn chúng lại hăm hở áp dụng sách vở Marx: đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp(!), phá bỏ tư doanh. Kèm theo chính sách sắt máu này là lùa dân đi Kinh- tế-mới và ngăn sông, cấm chợ. Chính sách tàn bạo này người dân uất ức mà không chống lại được nên đặt vè:


“Công an, thuế vụ, kiểm lâm

Trong ba thằng đó, mày đâm thằng nào?


Tiến lên chiến sĩ, đồng bào (người đặt vè mượn câu của lão Hồ bịp)

Trong ba thằng đó, thằng nào cũng đâm.


Kết quả là, đồng bằng sông Cửu long, vựa lúa miền Nam không đủ gạo để nuôi dân cho nên dân phải ăn bo bo, là thứ thực phẩm dùng cho ngựa ở các nước tư bản.


Sau nạn đói 1987, Việt cộng không tuyên bố, nhưng đã nới lỏng cho dân làm ăn. Vì không nới lỏng thì dân còn chết. Ở thành thị, chúng cho tư doanh ở những hộ làm ăn nhỏ và nông thôn chúng cho “khoán sản”, bỏ tiếng kẻng của hợp tác xã nông nghiệp. Từ đó, nếu so sánh với các nước láng giềng thì còn thua xa, nhưng dân đã khá hơn.


Dân trong nước từ thành thị đến thôn quê, đã nhìn rõ được điểm tốt đẹp của kinh tế thị trường.


Việt cộng ngày nay không dám quay về con đường kinh tế tập trung kiểu Hợp tác xã, vì chúng biết là áp dụng kinh tế tập trung là không những loạn ở nông thôn, mà loạn ngay trong đảng. Bằng chứng là nông dân Thái bình và một vài huyện ở Hà nam đã nổi loạn năm 1997. Huyện Quỳnh Phụ nổi dậy mạnh nhất. Dân chúng tập trung tới trên 5.000 người kéo lên huyện lỵ truy bắt bí thư huyện, chủ tịch huyện và Trưởng Công an huyện. Dân bắt trói trưởng công an huyện 3 ngày.


Thành phần nổi dậy có rất nhiều đảng viên và bộ đội xuất ngũ. Thế nên chúng áp dụng kinh tế tư bản, nhưng phịa ra câu Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để đỡ bẽ mặt, vì đã theo Marx (kinh tết tập trung) lại áp dụng kinh tế tư bản: rất là kỳ quái.


Phịa kiểu này thành ra “ Kinh tế thị trường theo định hướng “ xã hội chủ nghĩa” = Kinh tế tập trung.” Một câu này đã chõi nhau. Tối nghĩa. Bọn chóp bu Việt cộng đánh lừa dân chúng, đánh lừa cả đảng viên cấp dưới. Vì vậy có thể gọi là lý thuyết Cám Heo.


Trong thời Đệ nhất Cộng hòa, mặc dầu bọn Việt cộng phá hoại nông thôn, nhưng lúa gạo dư thừa và đã xuất cảng. Nhận xét về ông Diệm, ta không thể nào không nhắc đến tinh thần chống cộng mạnh mẽ của ông. Tổng thống Kennedy gọi ông là vị thánh chống cộng, dù sau này nhóm cố vấn của ông Kennedy điện cho ông Lodge ướm lời, phà hơi cho nhóm tướng tá đảo chánh chụp mủ ông Diệm là liên lạc, mặc cả với Việt cộng để có lý do kết tội ông.


Về phương diện liêm chính, ông Diệm lại càng nổi bật. Trong thời gian ông tại chức, phía đối lập cũng như bọn Việt cộng không tìm được một chứng cứ gì về tham nhũng, kể cả người em là ông Nhu. Ông chết đi không để lại một di sản nào cho em cháu xa gần. Ký giả Richard Reeves gọi ông Diệm là The Catholic Ascetic (tu sĩ khổ hạnh Công gíao), đã nói lên rất rõ ràng về đức liêm khiết của ông Diệm.


So sánh với bọn lãnh đạo cộng sản như Hồ chí Minh thì lem nhem từ Nguyễn thị Minh Khai, Tăng tuyết Minh, Nông thị Ngát, Nông thị Xuân, Đỗ thị Lạc và những người tình từ Pháp (Marie Biere), Tàu (Li Sam) , Thái... Lê Duẩn thì 5 vợ, 5 biệt thự từ bắc vào nam. Khi Duẩn chết, đám tang lòi rõ những người vợ của Duẩn đội khăn trắng bỏ vòi, được chiếu trên TV. Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Cai đồn điền, Hoạn lợn và những đám chóp bu cộng sản khác đều có trương mục ở các ngân hàng ngoại quốc. Khải khi về hưu đã xây một dinh thự tại Củ Chi ước tính 2 triệu usd.


Con trai Khải là Hoàn Ty, ăn chơi nổi tiếng và đã bắn chết con trai Phạm thế Ruyệt tại một sòng bài ở Hanoi. Giết người công khai giữa thủ đô Hanoi mà không bị đưa ra tòa án xét xử. Người ta ví con trai Khải chơi ngông như Hắc Bạch công tử thời xưa ở miền Nam. Câu ví này chỉ đúng phần nào, vì Hắc Bạch công tử xưa kia không giết người.


Và, trong thời gian đang viết bài này, tin tức trong và ngoài nước rền vang vì một tên tư bản đỏ Bùi tiến Dũng tổng giám đốc PMU 18 đã thua cá độ bóng đá trong 2 tháng 1 triệu 8 đô la. Như vậy số tiền hắn có phải gấp vài chục lần. Hắn đã khoét tiền viện trợ của nước ngoài cho vay để làm cầu đường.(beton cốt tre )(!). Rồi đây ai trả nợ? Là dân Việt nam ở trong nước. Nợ phải trả bằng thuế của dân và tài nguyên quốc gia.


Đời sống nhân dân miền Nam vào thời Đệ nhất Cộng hòa ổn định. Người dân trong nước có mức sống cao hơn thời Đệ nhị. Nguyên nhân vì thời Đệ nhị Cộng hòa lạm phát tăng nhanh. Lương quân nhân, công chức tăng nhưng không kịp đà lạm phát. Tuy thời Đệ nhị đời sống người dân không bằng thời Đệ nhất cộng hoà, nhưng so ra cũng hơn gấp hàng chục lần đời sống dân miền bắc. Vì vậy cán bộ cộng sản vào Saigon đã choáng ngợp trước sự phồn thịnh của miền Nam, và nhận ra được là họ đã bị bác Hồ (!) lừa bịp: “dân mìền Nam bị bóc lột nên bị đói.”


Ông Diệm có đức tính cương trực, bất khuất. Ông muốn cho nước được độc lập, dân được ấm no, hạnh phúc. Dù Mỹ đưa về lãnh đạo đất nước, ông vẫn coi Mỹ là đồng minh, nhưng vì bản tính bất khuất, ông không chịu uốn mình quị lụy.


Thời ông Diệm tại vị, năm 1961 chỉ có 700 cố vấn Mỹ.


Tổng thống Kennedy khi đắc cử, muốn đưa thêm cố vấn và các đơn vị chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt nam, nhưng ông Diệm cũng như ý kiến một số tướng lãnh- (dẫn chứng ở bài viết của ông Tôn thất Đính và bài của ông Phan đức Minh)- không đồng ý với phía Mỹ, cho là đưa quân Mỹ vào để chặn làn sóng đỏ hữu hiệu hơn. (phần trích đoạn lịch sử Hoa Kỳ ở phần cuối loạt bài này)


Một vị Tổng thống đạo đức, trong sạch, luôn luôn vì dân, vì nước, đã sớm nhận ra chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, dã man, nhận lãnh trách nhiệm đứng ra lèo lái quốc gia, không những đem lại ấm no cho dân, mà còn quyết tâm ngăn chặn làn sóng đỏ âm mưu chiếm miền Nam, vậy mà, đám tay chân rất ngu muội, ham quyền, ham tiền, đầu sỏ là Minh bị thịt, đã làm đảo chính và giết chết ông một cách hết sức dã man.


Trong Kỳ 2, tôi đã trích đăng bài của ông Mai tiến Tiệm viết về cuốn VNMLQHT.


Ông Tiệm viết: “Truớc đây 7 năm, tôi cũng đã đọc cuốn VNMLQHT đứng tên anh, nhưng do người khác viết….”


Nay đọc lá thư của một người trước đây nằm trong nhóm Giao điểm, ông Nguyễn văn Hoá, càng phời bày rõ Đỗ Mậu đã bị bọn tình báo cộng sản lợi dụng:


‘… Nhưng, tiện đây tôi cũng muốn dùng cái “tâm địa” của tôi nói thêm vài điều cho minh bạch với dư luận đầy phiền não của cộng đồng trong vài chục năm qua:


Thứ nhất, trước khi về VN, tôi sợ ông Hoàng văn Giàu bên Úc thù vặt, thù dai, vì trong quãng thời gian làm website giaodiem.com, tôi từng chống lại ông ấy, nên phải tốn kém tiền bạc để đến Úc “đảnh lễ” hai vợ chồng ông. Tôi nói tôi muốn đem mẹ tôi về để được sống trên quê hương một thời gian trước khi mẹ tôi chết, và tôi chỉ muốn được sống yên, làm một công dân thầm lặng. Ông ấy nói: Chú muốn về chú phải xóa hết các trang web trong tháng 7 (năm 2006).


Còn tiếp ...


Quỳnh Hương


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét