Thế rồi tôi đề cập và hỏi đến cuốn “Hồi ký VN Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đổ Mậu, thì ông ấy trả lời: “Nếu tui không dùng Đổ Mậu thì dùng ai, ai đây?”. Như vậy, ông HVG xác nhận ông là kẻ đầu tiêu, mà Đổ Mậu chỉ là “bị dùng”, “kẻ thừa hưởng”, nhưng bởi dòng họ ĐM say men chiến thắng quá đáng lại bị kẻ khác “lèo lái”, nên bây giờ Phật Giáo mới bị Cộng sản khuynh đảo bi đát như vậy đó, chứ không vì “nội trùng, nội gián” gì cả. Quý vị (ACE và...) đã tự nguyện đồng hành và bám sau đít cộng sản và Mặt trận Tổ quốc của cộng sản, giờ có muốn chữa cháy cũng muộn rồi. Giả như trong lúc này, quý vị có ‘giã vờ’ bênh vực cho đoàn Tăng Ni chùa Bát Nhã bị đàn áp cũng ngượng lắm, phải không?
(Trong tháng 5 vừa qua, Mai thanh Truyết đến thăm tôi ở khu Mobilehome ở Santa Ana, tôi cũng kể lại tương tự. Thật lòng, tôi sợ tên Hoàng văn Giàu và đàn em hắn trả thù tôi sau lưng, khi tôi về VN. Ông Mai thanh Truyết làm chứng nhé!)….
Trong bài BỐN MƯƠI NĂM NGẬM NGÙI, ông Trương phú Thứ viết:
... “Một độc giả của VNTP, bà Hoa Vũ ở tiểu bang New Jersey, người đã mang chân dung TT Diệm từ Mỹ về tận Lái Thiêu. Bà Hoa đã đặt bức chân dung trên mộ TT Diệm chụp hình và sau đó phổ biến tới báo chí hải ngoại.
Bà Hoa đã viết thư cho cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ “… em không nhớ rõ là năm nào 1960 hay 1961, lúc đó em đang may ở tiệm Thanh Lịch gần chợ Bàn Cờ thì chợ bị cháy lớn. Vài hôm sau thì Cụ có đi thăm chợ và đồng bào nạn nhân. Cụ đi thẳng đến tiệm Thanh Lịch, lúc đó bà Phạm Bích Thuần là chủ tiệm may quá xúc động vừa khóc vừa nói: kìa, Vua đến nhà mình, cô Hoa, bạo dạn ra chào Vua đi. Khi Tổng thống bước lên thềm nhà thì em ra đứng khoanh tay cúi đầu nói: “con kính chào Tổng Thống.” Người hỏi: “cháy có sợ không?” Thưa Tổng thống con sợ lắm ạ.” Người lại hỏi: “may có khá không?” Em trình: “thưa Tổng thống, khá lắm.”
Trong lúc đó thì bà chủ cứ khóc vì quá xúc động được Vua tới thăm.
Cụ nói: “ngoan hỷ.” Rồi đi ra hướng đường Bàn Cờ. Ôi! Kể lại một chút kỷ niệm mà lòng em dâng lên một niềm thương nhớ Cụ vô cùng.”
Quan niệm của ông Diệm cho rằng đưa quân Mỹ vào Việt nam có 2 điều bất lợi:
Thứ nhất: Cuộc chiến chống quỉ đỏ của nhân dân miền Nam Việt nam mất ý nghĩa chính đáng... và không lợi đối với dư luận thế giới. Sự hiện diện của đơn vị chiến đấu Mỹ là một kẽ hở lớn để bọn Việt cộng xảo quyệt, lợi dụng tuyên truyền dân chúng, cả Bắc lẫn Nam, khuấy động lòng yêu nước chống ngoại xâm.
Ở miền Bắc thì chúng vịn lý do này để dễ dàng lùa thanh niên vào bộ đội gọi là “giải phóng miền Nam” (!), cho nên hàng trăm ngàn thanh niên miền Bắc đã chết vì lầm lẫn. Còn ở miền Nam thì chúng dựa vào việc chống Mỹ để tổ chức các cuộc biểu tình, gây bất ổn xã hội. Có một thời gian BÀN THỜ PHẬT XUỐNG ĐƯỜNG cũng nằm trong kế hoạch gây rối của Việt cộng, vì bọn chúng đưa cán bộ tôn giáo vận vào tổ chức Phật giáo miền Nam.
Muốn rõ thêm ở phần này, quí vị có thể tìm đọc bạch thư của đại lão Hòa thượng Thích tâm Châu và đọc trích đoạn dưới đây của nhà văn nữ Dương thu Hương, trong bài viết nhan đề TÔI LÀ PHẬT TỬ THEO CÁCH CỦA RIÊNG TÔI:
..... ”Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xử sở? .... Chẳng có gì bí mật cả, “bên trên” là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để “yểm” Hội Phật giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc. Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hòang nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là “tàn tích của chế độ phong kiến”.
Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương Đông đứng chơ vơ không biết từ nay “người cầm lái vĩ đại” của họ sẽ là ai? ...
Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá, nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu cầu sinh tử của kiếp người.
Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng hơn trong vai trò “bảo vệ nền chuyên chính”. Nhiệm vụ của họ là “khống chế hội phật giáo” biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ....điều này nữa, các tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh “mê tín” kia.
Vậy là đội quân “sư nhà nước” được hình thành. Nguồn đào tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ ... có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này được “tráng men” bằng lý thuyết đạo Phật và trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để “vào nghề”.
Trong cuộc chiến, Việt cộng thường lợi dụng ẩn nấp trong làng xóm tấn công quân Mỹ. Sự giao tranh diễn ra không những hai bên quân lính thiệt mạng, mà ngay cả dân làng, nơi Việt cộng núp lén, cũng khó tránh khỏi đạn bom. Sau này khi ông Kennedy chết rồi thì vụ Mỹ Lai xẩy ra. Không những Việt cộng lợi dụng vào đó để tuyền truyền chống Mỹ, mà ngay cả những tên cơ hội, thiên cộng như Oliver Stone, hay me Mỹ Xì líp hay tên thầy chùa lấy vợ Nhất Hạnh cũng ồn ào đả kích.
Tòa án Mỹ đã xử Trung úy Mỹ William Calley gây ra vụ án Mỹ Lai, chỉ vì viên Trung úy sót đồng đội của mình bị chết trước họng súng kẻ thù ngày 16 tháng 3 năm 1968. Sau 13 ngày xét xử, Đại tá trưởng bồi thẩm đoàn tuyên đọc bản án dành cho Trung Uý William Calley :
( jury head Colonel Clifford Ford pronounced Calley's sentence: "To be confined at hard labor for the length of your natural life; to be dismissed from the service; to forfeit all pay and allowances." ) (bị chung thân khổ sai , bị giải ngũ và mất hết quyền hạn vể lương bổng và trợ cấp). (1)
Tòa án nào xử Cáo Hồ giết nửa triệu người dân miền đồng bằng Bắc phần trong chiến dịch đấu tố dã man, cướp ruộng đất từ 1953 đến 1958 và 5.000 người dân Huế bị chôn tập thể trong vụ chúng tấn công Tết Mậu thân 1968?
Thứ hai: Quân Mỹ đổ vào quá nhiều sẽ làm đảo lộn đời sống văn hóa Việt nam.
Hai điều này mãi 10 năm sau Mỹ mới nhận ra và tìm cách rút khỏi vũng lầy Viêt nam bằng hiệp định Paris năm 1972 thì lại chọn lầm người, yểm trợ một người thiếu khả năng lên nắm quyền, làm mất miền Nam vào tay bọn quỉ Việt cộng.
Trong một cuộc mạn đàm vào Tết Bính tuất (2006) giữa cựu Đại tướng Cao văn Viên và ông Lâm lễ Trinh (nguyên là bộ trưởng Bộ Nội vụ thời Đệ nhất Cộng hòa), ông Trinh đã viết một phần trong cuộc nói chuyện. Dưới đây là câu hỏi của ông Trinh và câu trả lời của Đại tướng Viên.
LLT: Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chính năm 1963, các tướng Miền Nam có được chuẩn bị về chính trị để lãnh đạo cuộc chiến chống Bắc Việt hay không? Anh nghĩ sao về Hội đồng Quân nhân Cách Mạng? Nếu ông Diệm thoát khỏi cuộc đảo chính 1963 thì anh nghĩ Miền Nam có thể tránh sụp đổ chăng năm 1975?
CVV: Họ thiếu chuẩn bị về chính trị. Họ chia rẽ. Không ai có đủ khả năng và uy tín để thay thế Tổng thống Diệm. Nhóm đảo chính tự phong cho mình danh xưng Cách mạng. Thật ra mục tiêu của họ là giết TT Diệm chớ không phải thay đổi tốt xứ sở. Bằng chứng là họ đã gây ra sau 1.11.63 hỗn loạn liên miên và tự loại. Không có một lãnh tụ nào có tầm vóc hay cương lĩnh kiến quốc cỡ Nasser, Sukarno, Lý Thừa Vãn..
Để trả lời phần hai câu hỏi của anh: Ông Diệm là một lãnh tụ được biết nhiều về mặt quốc tế, hơn ông Thiệu. Dù sao, ông chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của TT Diệm đều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn TT Diệm. Vì ông Nhu có nhiều mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm thì trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ.
Qua câu hỏi của ông Trinh, nhận xét của cựu Đại tướng Viên cũng thấy rằng việc giết ông Diệm là sai lầm. Xin mời bạn đọc theo dõi tiếp:
LLT: Anh có nghĩ rằng quyết định giết Tổng thống Diệm sớm làm Miền Nam sụp đổ hay không? Chuyện gì đã xảy ra cho cá nhân anh ngày 1.11.1963?
CVV: Giết ông Diệm là một lỗi lầm nguy hại. Ngày 1.11.63, tôi là Đại tá tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù (thay thế Nguyễn Chánh Thi). Khi Hội đồng Cách mạng hỏi tôi có ủng hộ phe đảo chính hay không, tôi trả lời: “Lật đổ Chính phủ là một chuyện quốc gia đại sự, tôi không được hỏi ý kiến trước. Tôi chỉ là một quân nhân, không làm chính trị.”
Họ còng tay tôi, tôi ngồi chờ trước cửa văn phòng ông Dương Văn Minh. Tôi tự hỏi: Sẽ chung số phận với Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền chăng? Ông Tôn Thất Đính bước ra can thiệp mở còng cho tôi. Hôm sau, tôi được thả nhưng bị quản thúc tại gia ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn. Lối một tuần sau, tôi về chờ lệnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vô cùng chán nản, không tha thiết ở lại Quân đội, vì tình huynh đệ chi binh không còn nữa, anh em một nhà giết hại lẫn nhau. Nếu có lệnh đẩy tôi làm tùy viên quân sự tại Lào, tôi chấp nhận ngay. Vientiane là nơi tôi ra đời. Tên tôi, Viên, là vần đầu tiên của thủ đô Vientiane.
Một hôm, trong khi ngồi rầu tại văn phòng, tôi bổng nhận được cú điện thoại của vợ tôi. Bà hỏi: “Buồn lắm hả? » Nước mắt tôi tự nhiên trào lên. Vợ tôi tiếp: « Nếu “người ta” đưa anh trở lại chỉ huy nhảy dù, anh chịu không? » Tôi nghẹn lời vì không thể tin được. Do sự dàn xếp sao đó mà tôi không được biết giữa vợ tôi và bà Trần Thiện Khiêm (hai người thân thiết với nhau), tôi nhận được sự vụ lệnh, ordre de mission, của tướng Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân, đưa tôi về nắm lại Nhảy dù.
Ông Khiêm cho tôi biết mật rằng đây là một quyết định riêng của ông, chắc sẽ gặp phản ứng vì không hỏi ý kiến cấp trên. Đúng vậy, việc bổ nhiệm chính thức bằng một công vụ lệnh, ordre de service thuộc thẩm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội. Một thời gian ngắn sau, ông Khiêm mất chức Tham mưu trưởng Liên quần, bị đổi về chỉ huy Quân đoàn 3. Vài ngày trước 30.1.1964, Khiêm điện thoại kín cho tôi, hỏi:”Sẵn sàng chưa?”. Đây là ám hiệu hành động. Đêm 30 tháng giêng, Lữ đoàn dù của tôi giúp hai Trung tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm chỉnh lý phe Dương Văn Minh.
Việc “hốt” các tướng “trung lập” thực hiện dễ như trở bàn tay. Không đổ máu, không tốn một viên đạn vì sau 1.11.1963, các tướng này đều dùng quân dù của tôi để canh gác nhà họ. Thật như “gởi trứng cho ác! ” Việc tôi giúp ông Khiêm là chuyện dĩ nhiên, để đáp ơn “thả hổ về rừng”. Tôi không để ý đến điểm Minh, Đôn, Đính, Xuân và Kim có thật sự chủ trương trung lập hay không.
Câu hỏi và câu trả lời dưới đây xác nhận việc Dương văn Minh ra lệnh cho Nhung giết ông Diệm:
Lịch sử việt nam
CVV: Chính tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh giết hai ông Diệm và Nhu. Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của Minh, thăng Thiếu tá sau vụ ám sát, có nhiệm vụ thi hành lệnh dưới sự giám sát của hai tướng Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Quan (người thay Đổ Mậu trong chức Tổng giám đốc An ninh Quân đội). Nhung bị An ninh Quân đội bắt trong vụ chỉnh lý nói trên và đem về giam tại Lữ đòan dù của tôi. Hôm sau, tôi được phúc trình Nhung đã tự treo cổ bằng một sợi dây giày nhà binh. Có lẽ vì Nhung biết không tránh khỏi tử hình nếu bị giãi ra trước Toà vì Nhung phạm quá nhiều tội ác.
Ngày đó dư luận cho rằng vì thất bại trong chiến dịch đổ bộ Vịnh Con Heo (Bay of Pig) của Tổ chức Cuba tự do, với sự giúp đỡ của Mỹ tháng 4 năm 1961, cùng sự chọc giận của Tổng bí thư mồ ma cộng sản Liên xô là Nikita Khrushchev, trong phiên họp tại Vienna, Áo, vào tháng 6 năm 1961.
Khrushchev đòi Tổng thống Kennedy phải “điều chỉnh tình trạng ở Tây Bá Linh và Đài Loan (trích dẫn lịch sử Hoa Kỳ ở phần cuối), đã đưa Tổng thống Kennedy đến quyết định lật đổ ông Diệm để đạt mục đích đưa quân tham chiến ở miền Nam Việt nam.
Chính quyền Kennedy đã sai lầm, nhưng chuyện đã đi vào lịch sử của 2 quốc gia.
Tinh thần bảo thủ của ông Diệm và ông cố vấn Ngô đình Nhu rõ ràng là nguyên nhân đưa đến một kế hoạch đảo chánh- tiền vốn bỏ ra rất nhẹ : 42,000 usd-do lệnh của Toà Bạch Ốc, qua ông Cabot Lodge, mà Đại tá tình báo Conein trực tiếp chuyển giao tại câu lạc bộ sĩ quan An đông, nơi dùng làm bộ chỉ huy cuộc đảo chánh để thay thế ông Diệm bằng một người nào đó, xương sống mềm, biết luồn cúi, trong vòng tay đồng minh của Mỹ.
Một nhận xét tưởng không quá đáng, nếu không có bàn tay của ông Kennedy thì dù tên Việt cộng nằm vùng Trí Quang có khuấy rối hơn nữa, hay dù có thêm vài ba Big Minh nữa cũng chẳng lật đổ được ông Diệm.
Tên trọc đầu Trí Quang cũng như linh mục lấy vợ Nguyển ngọc Lan và mụ bác sĩ Dương quỳnh Hoa sau 30-4-75 cảm thấy rõ bị lợi dụng, bị vắt chanh bỏ vỏ. Dương quỳnh Hoa và Nguyễn ngọc Lan- đảng viên cộng sản ra rìa- chết tức tưởi, còn trọc đầu Trí Quang sống câm nín những năm cuối đời.
Sử Việt có nhiều dẫn chứng về lý do dựa vào để động binh, dù gượng gạo hay bịa đặt:
- Ông Nguyễn Huệ mượn cớ phù Lê, diệt Trịnh, để đưa quân ra Bắc (1787)
- Nhà Thanh mượn cớ đưa Lê chiêu Thống về làm vua, để Tôn sĩ Nghị, Tổng đốc Lưỡng Quảng, đem quân xâm lăng Việt nam(1788).
- Pháp mượn cớ bảo vệ giáo sĩ truyền giáo để đưa quân vào Việt nam thế kỷ thứ 19.
- Quân phiệt Nhật mượn cớ nhờ đường xe lửa Hanoi- Vân nam để chuyển quân đánh Tàu (quốc gia của Tổng thống Tưởng giới Thạch). Nhật đổ quân vào Việt nam 1941. Đến ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để cai trị Việt nam, được 5 tháng, cho đến tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng đồng minh trong đại chiến thế giới lần thứ 2.
- Và, năm 1963, ông Kennedy ngụy tạo cớ để lật đổ ông Diệm, nói rằng ông Diệm và ông Nhu đã mặc cả với cộng sản, ngõ hầu ông Kennedy được đổ quân vào Việt nam. Cuối năm 1963, quân Mỹ ở Việt nam là 17,000 người.
- Việt cộng đánh chiếm Cambodia 1980, thì lấy cớ là giúp dân nước này diệt Khơ me đỏ, để rồi cai trị và vơ vét tài nguyên Cambodia 10 năm. Trong vụ này, cai đồn điền Lê đức Anh , người nắm giữ lực lượng Việt cộng xâm lăng, là giầu nhất.
- Rồi Trung cộng lùa quân sang đánh 6 tỉnh miền bắc Việt nam năm 1979 lại vịn cớ là “ dạy cho Việt nam một bài học (!)”.(dằn mặt, không muốn cho Việt nam có ý đi theo Liên xô)
Gần đây nhà Xuất bản Hùng Vương California tái bản cuốn CHÍNH ĐỀ của ông Ngô đình Nhu, mà theo Tiến sĩ Phạm văn Lưu thì cuốn sách nguyên bản tiếng Pháp xuất bản năm 1964 đã được dich lại ra tiếng Anh và tiếng Việt. (mời bạn đọc theo dõi bài viết của Tiến sĩ Phạm văn Lưu ở phần sau).
Ông Ngô đình Nhu viết cuốn CHÍNH ĐÊ cách đây nửa thế kỷ, đã tiên đoán nguy cơ của kẻ thù truyền kiếp Tàu phương bắc mà Hồ chí Minh và bè lũ đã ngu muội không nhận ra.
Trong Đoạn 11 :VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM, ông Nhu viết:
“….. Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó.
Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong hoàn cảnh hiện tại(2), sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa….”
Đọc cuốn CHÍNH ĐỀ, có nhiều người đã so sánh ông Ngô đình Nhu như là Khổng Minh của Việt Nam.
Khổng Minh mưu lược tài ba, nhưng cũng chỉ giúp Lưu Bị giữ vững Ba Thục trong một giai đoạn. Ông Ngô đình Nhu cũng chỉ giữ cho miền Nam được vững chãi, phồn thịnh được 9 năm, và tiếp nối nên Đệ Nhị Cộng Hoà được 12 năm.
Nhưng có 2 điểm khác nhau giữa Khổng Minh và ông Ngô đình Nhu:
1- Khổng Minh không bị đám tay chân của Lưu Bị sát hại dã man như đám Minh Xuân tay chân của ông Diệm.
2- Đất Ba Thục của Lưu Bị không bị các thế lực ngoại bang áp lực như Việt Nam vào thập kỷ 50 thế kỷ 20.Chú thích (1) Trích trong bài An Introduction to the My Lai Courts-Martial của Doug Linder.
Cuốn Chính Đề của ông Ngô đình Nhu viết từ cuối thập kỷ 50 sang đầu thấp kỷ 60, trước ngày đảo chánh 1-11-1963.
Trước ngày đảo chánh 1-11-1963, ông Diệm lưỡng đầu thọ địch. Đối ngoại, ông không chịu uốn mình theo lệnh Mỹ, mà Mỹ là chỗ dựa chính cho miền Nam Việt nam....Đối nội, ông Diệm không mềm dẻo trong chính sách tôn giáo, dù là có Việt cộng giật giây, làm cho tình hình miền Nam càng ngày càng bất ổn. Bất lợi đến với ông và gia đình ông là điều khó tránh.
Hai yếu tố bất lợi chính đã đưa đến sự thất bại và cái chết thê thảm của 3 anh em ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn. Nhưng nó cũng báo trước ngày Mỹ thất bại và miền Nam Việt nam rơi vào tay bọn quỉ vô thần.
Cuộc đảo chánh 1-11-1963 thành công đối với ông Kennedy, với Việt cộng và với nhóm tướng phản bội.
Cuộc đảo chánh giết được ông Diệm, ông Nhu, xoá nền Đệ nhất Cộng hòa, nó đem lại lợi nhất thời cho Mỹ: 12 năm; cho một số tướng lãnh làm đảo chánh. Nhưng nó đem lợi nhiều cho Việt cộng. Đối thủ chính của Việt cộng, người mà chúng sợ nhất là ông cố vấn Ngô đình Nhu, một người nhiều mưu lược, đã chết. Sau này, nhiều người nhận xét : nếu ông Diệm và ông Nhu còn lãnh đạo miền Nam thì ngày 30-4-1975 không xẩy ra.
Ngày 30-4-1975 là ngày đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, phủ trùm miền Nam một màu ảm đạm. Việt cộng với rất nhiều cố vấn Trung cộng và Liên xô đã ào ạt tấn công miền Nam, trong khi Mỹ ngoảnh mặt. Kể từ tháng tư đen, dân miền Nam bị khốn khổ về kinh tế, bị mất hết tự do, bị kìm kẹp trong hệ thống công- an- trị của đảng cộng sản.
Người dân miền Nam nghĩ về cuộc sống ấm no thời Đệ nhất Cộng hòa chỉ còn luyến tiếc; nghĩ về người lãnh đạo tài trí, liêm khiết, đạo đức là Tổng thống Ngô đình Diệm chỉ còn biết sót thương người vị quốc vong thân, buồn cho phận mình và thù ghét cộng sản.
Trong số những người bừng tỉnh sau khi Việt cộng xâm chiếm miền Nam, không riêng là những người trước kia chỉ biết làm ăn, buôn bán, không quan tâm nhiều về chính trị, mà còn rất nhiều- rất là nhiều- những người thiên cộng, hoặc rất nhiều người là cán bộ nằm vùng. Khi họ nhận ra được mình đã bị lừa thì quá muộn.
Một điểm đặc biệt là trong khi xây dựng về quân sự để quân đội đủ mạnh bảo vệ miền Nam Việt nam, ông Diệm còn xúc tiến việc thiết lập Ấp chiến lược.
Xây dựng Ấp chiến lược là tách cán bộ Việt cộng ra khỏi làng xóm, ra khỏi dân ,để Việt cộng không còn chỗ dựa trong chiến tranh du kích, cũng như tách cá ra khỏi nước. Mất chỗ dựa trong chiến tranh du kích, Việt cộng phải đương đầu bằng trận địa chiến, mà trận địa chiến là nhược điểm của Việt cộng vì chúng không có phi cơ yểm trợ, lại rất khó khăn trong việc di chuyển pháo binh và tiếp vận.
Việt cộng rất sợ Ấp chiến lược. Đó là một hạ tầng cơ sở vững chắc, chống cộng hữu hiệu. Vì rất sợ nên chúng luôn luôn muốn phá.
Ngay sau khi giết ông Diệm, Minh đã cho hủy bỏ Ấp chiến lược chứng tỏ khả năng yếu kém của Minh trong quốc sách chống cộng, nếu không muốn nói là ‘thiên cộng’.
Trong mỗi ấp chiến lược, ông Diệm còn cho dân lựa chọn người đại diện để bàu ra điều hành thôn ấp. Đây là mục tiêu thứ hai của Ấp chiến lược : “xây dựng hạ tầng cơ sở dân chủ” cho dân trong ấp tự làm chủ vận mạng của mình. Tổng số Ấp chiến lược đã được xây đựng trong thời Đệ nhất Cộng hòa là 2137 ấp.
Để thêm dẫn chứng, mời độc giả theo dõi phần đối thoại giữa cố Đại tướng Cao văn Viên và ông Lâm lễ Trinh:
LLT: Trong hồi ký “Vietnam. Histoire secrète d’une victoire perdue” (nxb Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến Lược, Strategic Hamlets (mà ông Ngô Đình Nhu là cha đẻ) làm Bắc Việt khiếp đảm vì rất hữu hiệu. Đúng như vậy không? Vì sao Hội đồng Cách Mạng lại hủy bỏ kế hoạch ấy?
CVV: Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nước, như đã từng thí nghiệm tốt ở Mã Lai với tướng Robert Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số Tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy điểm với thượng cấp. Thay vi chỉnh đốn lại để tăng hiệu lực, Dương Văn Minh và HĐCM đã hấp tấp hủy bỏ kế hoạch Ấp Chiến Lược liền sau vụ đảo chính vì lý do họ thù ông Nhu. Họ thay vào đó cái mà họ gọi là Ấp Dân Sinh. Đây là một lổi lầm ghê gớm. Tôi không biết rõ họ đã thảo luận với nhau ra sao. Lữ đoàn dù, do tôi chỉ huy lúc đó, bị nghi trung thành với ông Diệm nên không được hành quân, chỉ được giao làm những công tác vớ vẩn tại vùng Long An, Mỹ Tho…”
Nước Việt nam chẳng phải riêng của họ Trưng, họ Triệu, Lý, Trần , Lê, cũng chẳng phải của Nguyễn Huệ, Ngô đình Diệm. Nhưng những ai là người vì dân, vì nước thiết tưởng người đời sau phải công tâm nhận xét.
Trong thế kỷ 20, người có tội nặng với dân tộc, kẻ đã đem chủ nghĩa vô thần, không tưởng cộng sản áp đặt vào Việtnam, là Nguyễn tất Thành, còn gọi là Cáo Hồ, làm cho dân Việt nam, miền Bắc, khốn khổ hơn 60 năm, và, miền Nam lãnh tai họa đó cũng đã trên 30 năm.
Lên nắm quyền, Cáo mở màn giết người. Khởi đầu là vụ tàn sát các đảng viên Việt nam quốc dân đảng ở đường Ôn Như Hầu, Hanoi.
Khi phe Trục : Đức , Ý, Nhật thua Đồng minh Anh, Mỹ, Pháp, Trung hoa (quốcgia) và Liên xô, Liên hiệp quốc trao quyền cho quân Anh tiếp thu vũ khí của quân Nhật ở miền Nam. Anh trao lại quyền cho Pháp. Về phía bắc Việt nam, Liên hiệp quốc trao quyền cho Trung hoa quốc gia. Tổng thống Tưởng giới Thạch cử tướng Lư Hán sang tiếp thu khí giới quân đội Nhật. Cáo Hồ mở cuộc lạc quyên vàng năm 1946, đúc một bức tượng vàng đút lót Lư Hán, để Lư Hán rút quân về Tàu, ngõ hầu Cáo dùng bộ đội tiêu diệt các đảng phái quốc gia, nhất là hai tỉnh Vĩnh yên, Phúc yên.
Từ năm 1953, đến năm 1958, cáo theo bài vở của Mao, áp dụng cải cách ruộng đất, đấu tố, cướp nhà, cướp ruộng, giết những người khá giả. Có người chỉ có chưa đầy 1.000 mét vuông ruộng cũng bị qui là địa chủ., bị đấu tố hoặc bị giết.
Chữ nghĩa Việt nam phân biệt rõ ràng giữa trộm và cướp. Trộm là lén lút chiếm tài vật của người khác. Cướp là lấy tài vật của người khác công khai bằng vũ lực. Cướp có cướp ngày, cướp đêm. Lấy tài vật của người khác rồi bỏ chạy thì gọi là cướp giật. Lấy tài vật bằng vũ lực giữa thanh thiên bạch nhật như Việt cộng thì gọi Việt cộng là bọn cướp ngày.
Địa chủ, phú nông, tiểu tư sản, cường hào là những danh từ do Việt cộng học từ Tàu cộng để qui tội dân lành, nhằm mục đích cướp ruộng, cướp nhà và giết người. Đây là âm mưu thâm độc của Mao trạch Đông, dùng người Việt giết người Việt và làm ly tán dân tâm và phong hoá Việt Nam, ngõ hầu đạt mục đích xâm lăng sau này.
Từ năm 1956, chúng bắt đầu tập trung ruộng đất, lập hợp tác xã nông nghiệp. chỉ một thời gian 1 năm, ruộng cỏ mọc không có người chăm sóc, nước cạn không có người ra tát nước lên ruộng. Nước rò rỉ không ai ra đắp bờ. Tất cả đợi tiếng kẻng. Người dân bắt đầu sống ỷ lại, đưa đến hậu quả sản lượng lúa gạo càng ngày càng xuống. Cán ngố và dân ít học trông chờ CÁC THỤ SỞ NHU, chờ đợi ngày không làm mà có ăn, theo thuyết của Marx mà Hồ đem áp dụng để ru ngủ dân mình. Việt nam là nước có tới 90% sống về nông nghiệp, mà dân miền Bắc thiếu ăn triền miên từ 1956 đến 1988.
Cách giết người của Cáo thành tinh. Nó ưu việt ở chỗ giết người không cần súng đạn. Thời kỳ cải cách ruộng đất là thời kỳ đảo lộn xã hội, theo sách vở Marx mà chúng học. Nhưng ngày nay, bọn địa chủ tư -bản –đỏ lại nhan nhản ở Hanoi, Saigon, Haiphong . Tài sản của chúng gấp trăm, gấp ngàn lần nửa triệu người bị giết trong chiến dịch đấu tố. Chỉ một Bùi tiến Dũng , tổng giám đốc về Xây Dựng quốc doanh, trong một tháng cá độ bóng đá với số tiền 1 triệu 8 đô la thì thử hỏi số tiền tham nhũng của hắn có là bao nhiêu?
Dưới đây là một trong những bức hình đấu tố dã man tàn bạo của bè lũ cộng sản do ký giả Liên xô chụp ở miền Bắc Việt nam năm 1955, mà ngày nay nhờ tiến bộ thông tin, chúng ta đã được nhìn thấy rõ sự tàn bạo của chủ nghĩa cộng sản.
Lịch sử việt nam, cải cách ruộng đất
Sau này đất nước tự do dân chủ- chắc chắn là như thế- màn bí mật sẽ được vén lên. Những tội ác của chúng sẽ được phanh phui và, chẳng riêng gì dân Việt, mà cả thế giới sẽ biết đến những chuyện rùng rợn, tàn bạo do Việt cộng gây ra trong nhiều thập kỷ.
Không kể những truyện như Những thiên đường mù của Dương thu Hương, Đêm giữa ban ngày của Vũ thư Hiên, Chuyện kể năm 2000 của Bùi ngọc Tấn, Gửi lại trước khi về cõi của Vũ cao Quận, Hồi ký của Trần Độ, gần đây Hồi Ký Của Một Thằng Hèn của nhạc sĩ Tô Hải, Nước mắt một thời của Nguyễn khoa Đăng.. Rồi sẽ còn rất nhiều những hồi ký kiểu Đoàn duy Thành (Làm người là khó), hoặc Tôi bày tỏ của Tiêu Dao Bảo Cự lần lượt đưa ra, phơi bày những bí mật xấu xa trong đám lãnh đạo cộng sản.
Bao nhiêu những bài viết, của các ông Bùi Tín, Lê Nhân, Nguyễn thái Hoàng ( Trần khải thanh Thủy), Hoàng Tiến, Đỗ quế Dương, Vũ thư Hiên, Nguyễn thanh Giang, Hà sĩ Phu, Tiêu dao Bảo Cự, Đỗ nam Hải, Nguyễn chính Kết, bà Dương thu Hương. Gần đây, rất nhiều nhà văn trẻ đã mạnh dạn tố giác sự giả dối, dã man của Việt cộng...
Ngày 22- 3- 2006, một cựu Trung tá Việt cộng, có 40 năm tuổi đảng, ông Trần anh Kim, quê Thái bình đã viết nhiều bài đăng trên nhiều websites. Bài nhan đề “Khái quát những sai lầm nghiêm trọng của đảng cộng sản Việt nam từ ngày có đảng”, đã cho ta thấy được rất nhiều mặt trái xấu xa, tàn ác của Việt cộng.
Năm 1959, nếu Cáo không ra lệnh, làm sao Phạm văn Đồng, một người có tiếng là ba phải (theo Vũ thư Hiên) lại dám ký dâng đảo Hoàng sa cho Tàu đỏ. Rồi năm 2001, bọn đàn em cáo tiếp tục dâng đất và biển cho Tàu.
Năm 1987 là năm nhớ đời, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp(!) mà Thanh hóa , Nghệ an, Quảng Ninh có hàng ngàn người chết đói. Chính thị Việt cộng cho việc người chết đói là “rất tốt đẹp”(!). Ủy ban nhân dân Tỉnh Thanh hóa dùng xe tải chở dân đi ăn mày ở các tỉnh miền Bắc, không chỉ nói lên sư sai lầm của kinh tế tập trung, mà nó còn cho ta thấy rõ sự xấu xa của chủ nghĩa xã hội. Điều nhục nhã nhất là những ngươì đi ăn xin được chính quyền cấp giấy chứng nhận , Phải chăng “cấp giấy chứng nhận cho dân Thanh Hoá làm Cái Bang là cái rất tốt đẹp của xã hội chủ nghĩa? (!)”
Nhà thơ Nguyễn chí Thiện, quê Hải phòng, người đã bị Việt cộng bắt giam nhiều lần, tổng số lên tới 27 năm, trong khi bị giam cầm cực khổ, ông đã làm rất nhiều bài thơ, mà bài TÔI TIN CHẮC là bài nói lên nỗi khổ của nhân dân khi chế độ cộng sản còn tồn tại:
Tôi tin chắc một điều
Một điều tất yếu:
Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu.
Nhưng tôi laị nghĩ một điều
Một điều sâu thẳm :
Là đêm tàn, cộng sản tối tăm
Nếu nó kéo dài thêm mấy mươi năm
Thì như thế sẽ buồn lắm lắm
Vì kiếp người sống chẳng bao lăm.
Nói khác đi là, bọn cán bộ cao cấp chỉ đem dùng từ ngữ chủ nghĩa xã hội rất tốt đẹp để đánh lửa, để bịp bợm, trong khi bọn chúng vơ vét làm giầu cho bản thân mình.
“Như có linh tính báo trước là có chuyển biến, nên tôi liền trực tiếp trình ngay Tổng thống Diệm, xin lệnh khai hỏa, bằng 2 khẩu đại bác bắn thẳng đã giàn sẵn từ mấy hôm trước. ....
Nhưng Tổng thống Diệm không chịu, bảo rằng làm như thế chỉ có dân lành chết oan uổng mà thôi.”
So sánh ông Ngô đình Diệm và cáo Hồ, ta thấy rõ ai là người vì dân vì nước, ai là người bần cùng hóa nhân dân, lại dâng đất cho ngoại bang.
Để hiểu thêm về đạo đức và lòng yêu thương dân của ông Diệm, mời bạn đọc coi đoạn dưới đây trong bài viết của Phụng Hồng, Văn nghệ tiền phong 476 ngày 30- 11- 1995.
“ Thực vậy, cho đến ngày ông bị Dương văn Minh và Mai hữu xuân ra lệnh cho tên đồ tể thuộc hạ Nguyễn văn Nhung đâm chết một cách dã man chưa từng thấy trong lịch sử loài người, ông vẫn cương quyết thi hành chính sách ‘lấy dân làm trọng’ (dân vi quí).
Để dẫn chứng cho điều đó, cũng để làm sáng tỏ vấn đề- một vấn đề mà mãi đến bây giờ chưa thấy ai đề cập tới- tôi hân hạnh mời quí bạn đọc nghe câu chuyện dưới đây, 20 năm qua chưa được phanh phui nhân ngày đại tang tháng 11.
Số là ,tháng 6- 1975, khi vào Don Bosco để chờ ngày vào “ lò luộc người” mút mùa lệ thủy mà tìm về nước chúa nơi tiên cảnh (vì đã dại dột nghe theo lời đường mật phủ dụ của bọn ma vương, ngạ quỉ cộng sản Bắc Việt, nên chỉ đem theo 1 tháng tiền ăn và 2 bộ đồ nylon mỏng dính như của Brigitte Bardot). Tình cờ trong một đêm thao thức không ngủ, tôi gặp Trung tá TDN, nguyên tư lệnh phó Lữ đoàn liên binh phòng vệ Tổng thống phủ (hiện định cư tại N.H.)
Nhân khi chạnh nghĩ đến thân phận ...và chưa biết ngày mai sẽ ra sao, tôi buột miệng chua chát:
- “Nếu cố Tổng thống Diệm còn sống thì sức mấy mà chúng mình ngồi đây.
Anh N đã không trả lời thẳng vào câu than thở của tôi, mà chậm rãi nói:
- Chắc anh chưa biết một bí mật về giờ phút cuối cùng của cố Tổng thống Diệm tại Dinh Gia long vào chiều 1-11-1963?
Tôi trả lời: Chưa.
Anh N bèn nói nhỏ bên tai tôi, giọng trầm buồn, bí mật:
- Như anh đã biết, chiều hôm đó vào lúc 12giơ 30, tôi được sĩ quan trực nhật báo cáo có nhiều dấu hiệu chuyển quân khả nghi của một đại đội Thủy quân lục chiến đến bố trí tại sân Hoa lư, bên kia đường Hồng thập tự, đối diện Bộ tư lệnh LĐ. Như có linh tính báo trước là có chuyển biến, nên tôi liền trực tiếp trình ngay Tổng thống Diệm, xin lệnh khai hỏa, bằng 2 khẩu đại bác bắn thẳng đã giàn sẵn từ mấy hôm trước.
Nhưng Tổng thống Diệm không chịu, bảo rằng làm như thế chỉ có dân lành chết oan uổng mà thôi. Mãi đến giờ phút này ông đã quên mạng sống của mình mà chỉ nghĩ đến số phận người dân, theo đúng tinh thần ‘dân vi quí’.
Chưa hết, đến 4giỡ 40 là thời điểm chót, trước khi TT Diệm và bào đệ dời dinh, Đại sứ Mỹ Cabot Lodge đã gọi lại TT Diệm một lần nữa, mà tôi nghĩ đây là một dịp, một cơ hội cuối cùng cho TT Diệm và ông Nhu được bảo đảm tính mạng, nếu theo điều kiện của ông này. Song tôi thấy TT Diệm cầm máy lên- do đại úy Lê công Hoàn trao lại- và khảng khái từ chối.
Chính tai tôi đã nghe thấy TT Diệm trả lời một cách rất điềm đạm và bình tĩnh:
- Thank you, Sir. But I don’t want my people to be suffered (chú thích của Phụng Hồng: Xin cám ơn ngài. Nhưng tôi không muốn nhân dân tôi khổ...)
Trích đoạn trên đây cho thấy thêm một dữ kiện để chứng minh lòng thương kính đồng bào của ông Diệm, khác hẳn với tên khát máu, cáo đội lốt người, đã giết hàng ngàn chiến sĩ của các đảng phái quốc gia ở Vĩnh, Phúc yên năm 1947, 1948, giết nửa triệu người trong chiến dịch đấu tố 1953- 1958, học của Tàu cộng và mồ ma Liên xô, rồi giết và chôn tập thể gần 10.000 người dân Huế Tết Mậu thân 1968, trong số này có cả trẻ em.
Người viết bài này không quen biết với Phụng Hồng, cũng không quen ông TDN, nhưng rất mong ông TDN có thể cho biết thêm chi tiết về ngày đen tối của sử Việt 1-11-1963, mà ông đã chứng kiến. Chúng ta góp mỗi người một chút, để lấy lại vị thế xứng đáng cho một người vị quốc vong thân.
Thêm một dẫn chứng cho thấy Dương văn Minh và Mai hữu Xuân đã nhận lệnh trực tiếp từ Conein để giết ông Diệm và ông Nhu. Mời bạn đọc theo dỏi phần trích dưới đây trong bài viết dài, của tác giả Tú Gàn, nhan đề là PHẢN TƯỚNG BỌN CÔN ĐỒ THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA:
Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” (a goddam bunch of thugs). Họ là ai và đã làm gì mà bị Tổng Thống Johnson miệt thị như vậy?
NHẬN DIỆN BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ:
Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Trần Văn Minh, Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Đỗ Mậu, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Tá Nguyễn Hữu Có, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, Đại Tá Nguyễn Khương và Đại Tá Đỗ Cao Trí.
Theo baì viết của ông Tú Gàn, việc lật đổ Tổng thống Ngô đình Diệm, ông Kennedy đã đưa qua 2 sĩ quan tình báo, một là Al Spera, hai là Lucien Emile Conein, để làm nhiệm vụ móc nối các sĩ quan Viêt nam Cộng hòa. Và, tác giả đã sưu tập được nhiều tài liệu về nguồn gốc của Conein, mà không tìm được tài liệu nói về điệp viên Spera. Spera sang Việt nam bề ngoài là cố vấn chính trị tại Bộ Tổng tham mưu.
Vai trò của Lucien Emile Conein:
Chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào nói về điệp viên Al Spera, nhưng chúng tôi có khá nhiều tài liệu về điệp viên Lucien Emile Conein. Ông sinh năm 1919 tại Paris, mồ côi cha sớm, lúc mới 5 tuổi được mẹ gởi sang Hoa Kỳ sống với bà dì tại Kansas City thuộc tiểu bang Kansas, nhưng vẫn giữ quốc tịch Pháp. Ông đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943 với cấp bậc Trung Úy, hoạt động chống Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến ở Âu Châu, rồi qua Bắc Việt khi chiến tranh chấm dứt.
Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, người đã giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại nhóm Bảy Viễn và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Sau đó, ông trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force), nhưng vẫn còn làm việc cho CIA.
Năm 1961 ông đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gon làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để chuẩn bị tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là “the indispensable man” (con người rất cần thiết). Còn trong cuốn "Vietnam: A History," sử gia Stanley Karnow nói rằng Lucien Conein là “một người lập dị, một người náo nhiệt, một nhân viên tình báo rất nhạy cảm và hoàn toàn chuyên nghiệp, thường không thể kiểm soát được” Sau này, Everette E. Howard Hunt cũng đã dự tính dùng Lucien Conein trong vụ Watergate.
Phần dưới đây trong bài viết của tác giả Tú Gàn, bạn đọc theo dõi sẽ thấy chi tiết giết người dã man của đồ tể Nhung và sự thâm độc của Big Minh và Hữu Xuân. Nhất là đoạn ông Diệm và ông Nhu bị đưa vào Tổng Nha Cảnh sát để tra tấn khảo của.
Dương văn Minh và Mai hữu Xuân đã chết. Bàn tay nhúng máu của 3 tên đại gian ác thì 1 tên chết ngay sau Tổng thống Ngô đình Diệm vài tháng, còn hai tên Minh và Xuân thì ám ảnh suốt cuộc đời cho đến ngày sang thế giới bên kia. Những ngày cuối đời, Xuân đã phát điên. Và còn có tin là Xuân thường lảm nhảm và chắp tay cầu xin rằng : “ Xin cụ hãy tha cho con”. Dương văn Minh và Mai hữu Xuân chắc không theo đạo Phật và không nhớ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
“Thiện căn bởi tại lòng ta”-
Mời bạn đọc theo dõi tiếp bài PHẢN TƯỚNG, BỌN CÔN ĐỒ THỜI VNCH
“Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy (Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa.
Lệnh hành quyết do Washington truyền cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gon. Ông này truyền cho Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh qua Lucien Conein. Tướng Minh giao cho cận vệ của mình là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung thi hành dưới sự chỉ đạo của Tướng Mai Hữu Xuân. Các sĩ quan khác, kể cả Tướng Đôn, đều không biết gì hết.
Như đã nói ở trước, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã quyết định giết thêm Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Muốn giết ông Ngô Đình Cẩn, CIA phải lừa ông vào Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, nói rằng sẽ cho đi ngoại quốc, sau đó dùng công điện báo cáo láo về Washington nói rằng trong nhà ông Cẩn có hầm chôn người và súng, dân chúng đang biểu tình, rồi giao ông Cẩn cho Tướng Khánh giết.
Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Đôn xác nhận trong nhà ông Cẩn không hề có hầm chôn người hay súng.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng sở dĩ Tổng Thống Johson đã gọi nhóm tướng lãnh được thuê làm đảo chánh là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” vì hai lý do: Lý do thứ nhất là cách thức giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chưa một nhà lãnh đạo nào trên thế giới đã bị bọn tay chân bộ hạ thân tín, được hưởng nhiều ơn mưa móc, giết một cách thê thảm như thế trong một cuộc đảo chánh. Lý do thứ hai là sự tham nhũng và bất tài của nhóm này.
HÀNH ĐỘNG ÁC ÔN CÔN ĐỒ
Khoảng 10 giờ ngày 2.11.1963, khi chiếc M113 chở xác ông Diệm và ông Nhu về đến Bộ Tổng Tham Mưu, đậu trên sân cỏ phía tay phải. Mở cửa xe phía sau ra, người ta thấy ông Diệm mặc bộ complet màu xám sậm, ông Nhu mặc bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai bị trói thúc ké tay sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề. Một quân cảnh đứng gác tại đó cho biết, Tướng Dương Văn Minh đã xuống và tự tay vạch quần ông Diệm ra xem có “chim” không! (1)
Với các dấu vết trên hai xác chết như vậy, nhiều người đã đặt câu hỏi: Hai ông đã bị giết như thế nào? Cách tường thuật của mỗi người mỗi khác.
Tác giả Tú Gàn đã tìm tòi để biết rõ hơn về việc TT Diệm và ông Nhu bị sát hại như thế nào. Ông đã đọc cuốn Assassin in our Time của Sandy Lasberg, cuốn The death of November của Ellen J. Hammer, cuốn Les Guerres du Vietnam của Trần văn Đôn, đồng thời ông cũng gặp tướng Nguyễn chánh Thi và tướng Lê minh Đảo để tìm hiểu. Đặc biệt là ông được một nhân chứng sống, người ngồi trong xe M 113 chở TT Diệm và ông Nhu. Có lẽ vì người cung cấp tin không muốn để lộ danh tánh nên trong bài tác giả Tú Gàn không nêu tên.
Mời bạn đọc theo dõi:
Trong cuốn “Assassin in our Time” (Kẻ sát nhân trong thời đại chúng ta) xuất bản năm 1976, ở trang 142, Sandy Lesberg đã mô tả như sau: Ông Diệm và ông Nhu ngồi với hai tay trói sau lưng. Trong khi ông Diệm giữ im lặng, bất thình lình viên thiếu tá dùng dao găm (bayonet) đâm ông Nhu 15 hay 20 lần. Sau đó, hắn ta rút súng lục bắn vào sau đầu ông Diệm. Thấy ông Nhu còn quằn quại trên sàn, viên thiếu tá ban cho ông ta một cú ân huệ bằng cách cũng bắn vào đầu ông ta.
Sandy Lesberg không cho biết ông đã lấy tin này từ ai. Thật ra, lúc đó Nguyễn Văn Nhung còn là Đại Úy, sau này mới được thăng Thiếu Tá
Với cuốn “Les Guerres du Vietnam” (Chiến tranh Việt Nam” xuất bản năm 1985, Tướng Trần Văn Đôn không hề mô tả gì đến cách giết ông Diệm và ông Nhu, mà chỉ mô tả về sự tàn ác của sát thủ Nguyễn Văn Nhung mà thôi.
Bà Ellen J. Hammer, tác giả của cuốn “A Death in November” (Cái chết vào tháng mười một), nói rằng khi chiếc xe chở ông Diệm và ông Nhu dừng lại ở cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa từ trên miệng cửa xe lia một tràng tiểu liên vào hai ông Diệm và Nhu. Đại Úy Nhung rút súng Colt ra bồi thêm mấy phát vào đầu. Nhưng thấy chưa thỏa lòng, Nhung rút dao găm đâm tới tấp vào ngực hai anh em ông Diệm.
Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa phủ nhận lời tường thuật này, ông nói rằng ông không ngồi trên xe chở ông Diệm và ông Nhu lúc đó. Nếu chính ông đã giết ông Diệm và ông Nhu, người ta cũng đã giết ông như giết Nguyễn Văn Nhung rồi.
(còn tiếp Bài PHẢN TƯỚNG, BỌN CÔN ĐỒ THỜI VNCH của tác giả Tú Gàn)
Chú thích
1- Độc giả đọc đoạn “vạch quần ông Diệm xem có chim không” đủ thấy tư cách của một tên côn đồ.
- Để biết thêm bọn cán bộ cộng sản bòn rút tiền viện trợ làm giàu thế nào mời bạn đọc mở website dưới đây, website này rất mới: http://clbnokia.wordpress.
(tiếp bài PHẢN TƯỚNG BỌN CÔN ĐỒ THỜI VNCH của tác giả Tú Gàn).
Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa là một đảng viên đảng Đại Việt, thuộc vào loại căm thù nhà Ngô,... sau này đã được Tướng Nguyễn Khánh cho ngồi ghế phụ thẩm quân nhân của Tòa Án Cách Mạng, xét xứ và tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn theo lệnh của Henry Cabot Lodge, mặc dù không có bằng chứng xác thực. Do đó, nhiều người vẫn tin vào lời tường thuật của bà Sandy Lesberg.
Có lẽ Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rõ Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã giết ông Diệm và ông Nhu như thế nào, vì sau cuộc “chỉnh lý” ngày 30.1.1964, trước khi ra lệnh giết Đại Úy Nhung để phi tang một nhân chứng quan trọng (có lẽ theo lệnh của CIA), ông đã đích thân lấy lời khai của Nhung và còn bắt Nhung ngồi viết lời khai về vụ này. Ông có cho tôi nhìn qua tờ khai này năm 1968 (1) khi đang ở Washington D.C.
Nhưng rất tiếc, khi xuất bản cuốn “Việt Nam: Một trời tâm sự”, ông đã không cho in nguyên văn tờ khai này, mà tự ý sửa đổi và cắt bớt đi. Tướng Mai Hữu Xuân được đổi thành Tướng Thu, mặc dầu trong Quân Lực VNCH lúc đó không có tướng nào tên là Tướng Thu cả. Theo tờ khai mà Tướng Thi công bố trong cuốn sách nói trên, Đại Úy Nhung đã khai như sau:
Khi xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu chạy được chừng 500 thước, Thiếu Tướng Thu (tức Mai Hữu Xuân) chạy xe ngược chiều trở lại và đưa lên một ngón tay trỏ. Đang còn ú ớ chưa biết giết ai, ông Diệm hay ông Nhu, họ định chạy qua để hỏi lại cho rõ thì dân chúng ùa ra xem rất đông, không chạy qua được. Bổng Thiếu Tướng Thu đưa hai ngón tay, họ hiểu rằng ông ra lệnh bắn cả hai người. Thiếu tá Nhung liền rút súng Colt 12 bắn mỗi người 5 phát, và sau đó bắn ông Nhu thêm ba phát vào ngực nữa.
Tướng Lê Minh Đảo, lúc đó là Đại Úy tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đã cho biết như sau: Sau khi ông Diệm và ông Nhu bị hạ sát ít lâu, Nguyễn Văn Nhung có kể lại chuyện này cho ông nghe. Nhung nói rằng khi được lệnh giết cả hai ông, Nhung đã bắn ông Nhu trước. Ông Diệm thấy thế đã nhắm mắt lại. Nhung liền bắn ông Diệm 5 phát. Sau đó quay qua bắn ông Nhu thêm 3 phát nữa. Điều này phù hợp với lời khai mà Tướng Nguyễn Chánh Thi đã công bố.
Tuy nhiên, sự thật không phải chỉ có thế. Xác ông Diệm và ông Nhu đã được đưa vào bệnh xá của Bộ Tổng Tham Mưu để khám nghiệm. Bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn (hiện nay ở New York), giám đốc bệnh xá này lúc đó, đã khám nghiệm và chứng nhận rằng cả ông Diệm lẫn ông Nhu đã bị bắn từ sau ót ra trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu. Vậy ông Diệm và ông Nhu đã bị trói, đánh đập và đâm lúc nào?
Một nhân chứng rất quan trọng hiện đang ở Melbourne, Úc Châu, cho biết ông là người đi trên chiếc M113 chở ông Diệm và ông Nhu từ nhà thờ cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, nên đã chứng kiến những sự việc xẩy ra. Câu chuyện ông kể lại có vẽ hợp lý hơn cả.
Theo nhân chứng này, vào trưa 1.11.1963, chi đoàn thiết giáp của ông được lệnh vào Sài Gon để tăng cường bảo vệ thủ đô. Khi đến Sài Gòn, chi đội này được chia làm hai toán, một tóan hợp lực với quân bạn bao vây Dinh Gia Long, một toán làm vòng đai an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhân chứng ở trong toán đóng tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Sáng 2.11.1963, khoảng 6 giờ 15 phút, toán ông được lệnh di chuyển ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vừa ra khỏi cổng chính thì thấy có 3 chiếc xe Jeep đang chờ. Chiếc thứ nhất có Tướng Mai Hữu Xuân và 3 cận vệ. Chiếc thứ hai chở Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và Đại Úy Dương Hiếu Nghĩa. Chiếc thứ ba chở 4 người, trong đó có Đại Úy Phan Hòa Hiệp. Sau đó là hai chiếc M113. Nhân chứng ngồi ở chiếc thứ nhì. Cuối cùng là 2 chiếc GMC chở đầy lính có vũ trang đầy đủ.
Khi đến Chợ Lớn, gần một nhà thờ, xe chạy chậm lại, các binh sĩ trên hai chiếc GMC được lệnh nhảy xuống, một số bố trí xung quanh nhà thờ, số còn lại bố trí ở vòng ngoài. Xe Tướng Xuân chạy một vòng rồi đậu lại bên kia đường.
(còn tiếp)
Quỳnh Hương

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét