Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Đôi Dòng Nhìn Lại - Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm - P4

 


ĐÔI DÒNG NHÌN LẠI - TỔNG THỐNG VNCH NGÔ ĐÌNH DIỆM - P4
Quỳnh Hương

P4

Sau cái phất tay của Đại Tá Dương Ngọc Lắm, ba đại úy Nhung, Nghĩa và Hiệp nhảy xuống xe. Đại Tá Lắm ngoắc chiếc M113 có nhân chứng ngồi trên đó đi theo. Nhân chứng cũng nhảy xuống xe. Khi cách Đại Tá Lắm khoảng 2 thước, nhân chứng thấy có 4 người từ trong nhà thờ đi ra. Người đi đầu là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người đi tiếp theo là ông Ngô Đình Nhu. Sau cùng là hai tùy viên (Đại Úy Đỗ Thọ và ông Nguyễn Đắc Khá). Đại Tá Lắm đến chào ông Diệm:

- Thừa lệnh Trung Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn.

Ông Diệm:

- Ông Đôn và ông Minh đâu hè?

Đại Tá Lắm:

- Thưa cụ, hai ông còn đang bận việc ở Tổng Tham Mưu.

- Thôi được. Thế tôi và ông cố vấn đi cùng xe kia với ông.

Đại Tá Lắm quay người lại chỉ vào chiếc M113 và nói:

- Thưa cụ, xin cụ lên xe này cho.

Ông Nhu khẻ nhíu mày lên tiếng:

- Không thể đón Tổng Thống bằng một chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.

Đại Tá Lắm khẽ nhún vai:

- Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung Tướng Chủ Tịch.

Đại Úy Nhung liền oang oang:

- Xin mời hai ông lên xe ngay cho đi.

Mặt ông Nhu đỏ bừng, giọng rất quyết liệt:

- Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng Thống...

Đại Úy Nhung:

- Ở đây khòng còn Tổng Thống nào cả.

Ngay lập tức, Nhung bảo hai quân nhân chạy đến đẩy hai ông lên xe và hạ cửa xe xuống...

Xe đi hết đường Nguyễn Trải, vào đường Võ Tánh đến trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia thì ngừng lại. Tổng Nha này đã bị chiếm từ ngày hôm trước nên không còn một cảnh sát nào lui tới. Chung quanh, các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 5 của Đại Tá Ngưyễn Văn Thiệu canh gác rất cẩn mật.

Một Đại Tá từ trên xe Jeep nhảy xuống, bảo các binh sĩ trên xe M113 chở ông Diệm và ông Nhu xuống xe hết. Bảy người trên xe nhảy xuống, nhưng tài xế và anh hạ sĩ xạ thủ được ra lệnh ở lại. Xe được lệnh đi vào Tổng Nha.

Khoảng 20 phút sau, chiếc M113 lại từ Tổng Nha chạy ra. Các binh sĩ lúc nảy được lệnh leo lên xe lại. Xe chạy ngược đường Võ Tánh trở lại đường Cộng Hòa. Nhân chứng hỏi hạ sĩ xạ thủ:

- Ông Diệm và ông Nhu đâu?

- Ở dưới.

- Sao rồi?

- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện. Người ta hỏi ông ta nhiều lần: Vàng, bạc, tiền của cất đâu? Ai giữ? Cơ sở kinh tài gồm những cơ sở nào? Ông Nhu trả lời không biết.

Lịch sử việt nam, ấp chiến lược

- Còn ông Diệm?

- Ông Diệm bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào hầm xe.

- Chết hay sống?

- Không biết.

Xe qua khỏi trường Petrus Ký rồi quẹo phải vào đường Hồng Thập Tự thì gặp lại 2 xe Jeep và hai xe chở binh sĩ lúc xuất hành buổi sáng. Xe Đại Tá Dương Ngọc Lắm đi đầu, xe thứ hai có Đại Úy Nhung.

Khi đến đường Cao Thắng, bên hông bệnh viện Từ Dũ, xe ngừng lại vì bên kia đang có xe của Tướng Xuân chạy ngược trở lại. Dân chúng ra xem rất đông. Tướng Xuân nhìn Đại Úy Nhung và đưa hai ngón tay trái lên hai lần. Sau đó, ông đưa ngón tay trỏ lên khỏi đầu và co vào duỗi ra đến 4 lần (giống như bóp cò). Đại Úy Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào.

Khi xe đến gần đường rầy xe lửa thì dừng lại trước cổng xe đã được đóng lại vì đang có đoàn xe lửa đi qua. Đại Úy Nhung từ chiếc xe Jeep nhảy qua chiếc M113 có chở ông Diệm và ông Nhu và la lớn: “Xuống! Xuống!” Các binh sĩ trên xe M113 nhảy xuống hết. Nhân chứng vừa nhảy xuống đất thì nghe nhiều tiếng súng nổ...

Những lời tiết lộ của nhân chứng này cho chúng ta thêm những yếu tố mới, nhất là đoạn hai ông bị đưa vào Tổng Nha Cảnh Sát để tra tấn và khảo của. Trò khảo của này là một “sở trường” của Tướng Mai Hữu Xuân. Sự tiết lộ này đã giúp giải thích tại sao hai ông bị trói tay ra phía sau lưng, trên mặt ông Diệm có nhiều vết bầm và trên người ông Nhu có nhiều lát dao đâm. Nguyễn Văn Nhung chỉ leo lên xe M113 trong một thời gian ngắn, không thể gây ra tất cả những thứ đó được.

Sau khi thi hành xong lệnh của chủ và lãnh tiền công, “bọn ác ôn cơn đồ đáng nguyền rủa” cấu xé nhau về chức quyền và tiền bạc, đưa tới mất chủ quyền quốc gia, rồi đến mất nước.

Bây giờ ở nơi các địa tầng “naraca”, Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Dương Ngọc Lắm, Nguyễn Văn Quan, Nguyễn Văn Nhung... đang cùng với hai “ông thầy” Henry Cabot Lodge, Lucien Emile Conein nghiền ngẫm về lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson. Nghe nói trong những năm cuối cùng, Mai Hữu Xuân đã phát điên, thỉnh thoảng quỳ quay vào tường, chấp tay van lạy: “Xin cụ tha cho con!”.

Nơi chốn luân hồi, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang... không dám bước ra nhìn ánh sáng, Tôn Thất Đính thất thểu như một bóng ma...

Tác giả Tú Gàn có đề cập trong phần đầu:

Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy (Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa.

Tác giả Tú Gàn có mở ngoặc đơn Kennedy administration để chỉ chính quyền Kennedy. Cũng như trong điện văn có 4 chữ ký đã trích dẫn ở Kỳ II, ta có thể hiểu là phe diều hâu của chính quyền Kennedy đã chủ trương việc giết ông Diệm.

Tuy việc giết TT Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu là chủ trương của phe diều hâu trong chính quyền Kennedy, nhưng việc đưa 2 ông vào trong Tổng nha Cảnh sát để khảo của thì không phải là của chính quyền Kennedy mà là Big Minh và Xuân nên TT Johnson mới gọi bọn này là “bọn côn đồ đáng nguyền rủa”. (A GODDAM BUNCH OF THUGS)

Một số trích dẫn trong các tài liệu của Hoa kỳ, cũng như gần đây, vào ngày 8-3-2006 trong buổi hội thảo về chiến cuộc Việt nam, cuốn băng ghi tiếng nói của Tổng thống Kennedy đã chứng minh cho ta thấy rõ ông Kennedy không chủ trương giết ông Diệm.

Nhưng ta có thể đặt câu hỏi: có phải Minh và Xuân đã tự ý giết ông Diệm và ông Nhu?

Câu trả lời là, chắc chắn Minh, Xuân, dù bản thân là tàn ác, bất nhân, cũng không thể nào dám tự làm chuyện sát nhân này. Bởi lẽ, khi đảo chánh thành công rồi, Minh Xuân biết là tướng lãnh làm đảo chánh vẫn phải nhờ vào Mỹ về cả quân sự và kinh tế. Nếu không có lệnh của thái thú Lodge, mà Conein chỉ là giám sát, thì Minh Xuân không dám giết ông Diệm và ông Nhu. Với những dẫn chứng nêu trên ta có thể tin là nhóm diều hâu trong chính quyền Kennedy, trong đó có thái thú Lodge đã ra lệnh cho 3 tên đồ tể giết TT Ngô đình Diệm và ông cố vấn Ngô đình Nhu.

Để bạn đọc, nhất là quí vị cựu quân nhân Quân lực Việt nam Cộng hoà biết về mặt thật của Big Minh, mời bạn đọc theo dõi những dòng Hồi ký của cán bộ cao cấp cộng sản, Nguyễn thành Thơ, trong bài viết của tác giả Trần bình Nam .

Nguyễn thành Thơ đã thuật lại việc Phạm Hùng đưa Dương văn Nhật, em ruột của Minh, là 1 tướng tình báo của cộng sản Bắc Việt, vào Nam liên lạc với Big Minh và ở nhà Minh.:

“Địch vận tướng Dương Văn Minh: Một tiết lộ có giá trị lịch sử nhất là nỗ lực vận động (từ năm 1963 đến năm 1968) sự hợp tác của tướng Dương Văn Minh bất thành do chính ông Nguyễn Thành Thơ thực hiện (thời gian 1968 làm Trưởng ban Binh vận R, một chức vụ chỉ giao cho cấp Ủy viên TW đảng) theo lệnh của Phạm Hùng. Hà Nội đã đưa tướng Dương Văn Nhựt (em của tướng Dương Văn Minh) từ miền Bắc vào tiếp xúc với Dương Văn Minh, và tướng Dương Văn Minh đều thông báo cho tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn biết nội dung các cuộc tiếp xúc này.

Năm 1968, sau trận Mậu Thân và Hoa Kỳ đang xuống thang chiến tranh. Tại bộ chỉ huy Trung ương cục R Phạm Hùng làm việc với Nguyễn Thành Thơ. Nguyễn Thành Thơ ghi:

“Anh Phạm Hùng bàn ‘Mỹ xuống thang chiến tranh, nội bộ ngụy sẽ mâu thuẫn chia rẽ lật đổ nhau, anh tổ chức tranh thủ Dương Văn Minh lợi dụng thời cơ để chiếm địa vị trong ngụy quyền để thực hiện hòa hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh’. Trung ương cục có điện kêu Dương Văn Nhựt (vốn là tướng trong hàng ngủ cộng sản, em ruột tướng Dương Văn Minh) cộng tác với tôi thực hiện.”

“Dương Văn Nhựt đến làm việc với tôi. Trước nhứt tôi hỏi Dương Văn Nhựt ‘quá trình qua Dương Văn Minh đối với ta có biểu lộ cảm tình gì không’. Nhựt trình bày ‘Thời Ngô Đình Điệm, Dương Văn Minh đảo chánh Diệm, đảng có kêu tôi gặp Minh, bảo với Minh khi làm tổng thống thì bãi bỏ ấp chiến lược đi. Minh trả lời ‘sẽ bãi bỏ ấp chiến lược nhưng chùa Phật, Thiên chúa được dựng lên theo gom dân lập ấp chiến lược vẫn giữ

Khi ta tấn công Mậu Thân Đảng bảo tôi (Dương Văn Nhựt) đến gặp Minh. Tôi đến nhà Minh, biết Minh đi Thụy Sĩ tôi lên ngay máy bay đi Thụy Sĩ, biết Minh về Thái Lan, tôi theo về Thái Lan, gặp được Minh tôi nói: ‘Ông Nguyễn Hữu Thọ mời Minh về tham gia Mặt Trận Giải Phóng và Chính Quyền liên hiệp’ Minh nói: ‘không biết làm chính trị, việc đó dành cho ông Thọ’ .

Tôi (Nguyễn Thành Thơ) nói với Nhựt ‘Như vậy Minh là một nhân vật trung gian, có quan điểm trung gian, theo địch vẫn có cảm tình với ta, vậy Nhựt đi làm việc với Minh là đi tranh thủ Minh lợi dụng tình hình, để giành địa vị trong ngụy quyền, hiệp thương với ta thực hiện hòa hợp’. Nhựt nói ‘Yêu cầu như thế ta tranh thủ hướng dẫn Minh giành quyền rất dễ, tôi tin Minh sẽ hăng hái làm theo’

“Khi Nhựt về báo cáo ‘Đến nhà Minh gặp mẹ tôi, mẹ tôi ôm tôi khóc, tôi cũng khóc, thấy vợ chồng Minh rất xúc động. Vợ Minh lo ăn nghỉ cho tôi rất chu đáo, con Minh vui mừng vì có người chú trong hàng ngũ cách mạng. Tiếp theo, khi nào Minh rãnh rỗi, tôi nói chuyện với Minh nhiều chủ đề để xiết vô chủ đề tranh thủ Minh, nói hướng dẫn của ta thêm thuận lợi. Minh chỉ hỏi để hiểu rõ thêm ý của ta, không thấy phản ứng gì’.

“Đến ngày chót Minh tổ chức chiếu bóng cho gia đình xem. Minh ngồi trên xe, tôi ngồi một bên, một người Mỹ ngồi một bên, người Mỹ luôn lén nhìn tôi. Sau đó Minh cho xe đưa tôi về Tây Ninh. Theo tôi (Dương Văn Nhựt) nhận xét, Minh ngồi giữa coi chiếu bóng, có một người Mỹ ở bên, để ngầm cho tôi biết, Minh giành chức vụ trong chính quyền ngụy để thương lượng với ta được một trường phái Mỹ ủng hộ .

“Tôi (Nguyễn Thành Thơ) báo cáo anh Phạm Hùng…, anh Phạm Hùng nói đại ý: ‘Ta đoán Mỹ sẽ xuống thang chiến tranh, ta hoạt động mạnh, ngụy suy yếu sẽ đẻ ra lủng củng. Minh nghe lời ta có thể đạt được mong muốn. Kể từ nay cắt đứt liên lạc để tránh lộ liễu, chuyện có quá trình, có đi sẽ đến. Trả Dương Văn Nhựt về Bắc”

“Cuộc vận động theo Nhựt nói lại, đến 30-4-1975, Phòng chính trị Bộ Tư Lệnh cấm không được nói cho ai biết, nên Nhựt không dám hé môi” (“Cuối Đời Nhớ Lại” trang 139, 140)

“Hoài nghi về sức mạnh của tân Tổng thống, Khrushchev rõ ràng cố dọa ông (Kennedy), đòi hỏi điều chỉnh lại tình trạng ở Tây Bá linh và Đài loan: Ông ta báo trước rằng,...2 nơi này không nơi nào còn có thể tồn tại mãi như từ trước tới nay. Ông Kennedy trả lời quyết tâm bảo vệ tình trạng hiện hưũ và cảnh cáo rằng Mỹ không khoanh tay nhìn đất đai rơi thêm vào tay cộng sản .”

VÀI DÒNG VỚI GIA ĐÌNH HỌ NGÔ ĐÌNH

Nếu có dịp đọc những bài viết về TT Ngô đình Diệm trên các trang báo hải ngọai, tôi nghĩ rằng quí vị cũng lấy làm vui mừng vì- chỉ trừ những người cộng sản và một số người trong nhóm đảo chánh- dân miền Nam đa số mến tiếc TT Diệm.

Cuộc cách mạng 19-8-1945 làm cho dân mất hết tự do, sống một cuộc sống kham khổ, có cả nạn chết đói trong thời gian không có chiến tranh. Suốt hơn nửa thế kỷ, dân miền Bắc sống cơ cực về mọi mặt, và miền Nam khốn khổ trên 30 năm, kể từ ngày Việt cộng chiếm miền Nam.

Đảo chánh 1-11-1963 làm cho dân đang ấm no hạnh phúc trở thành suy sụp, vì nạn lạm phát mỗi ngày một gia tăng, bất ổn chính trị triền miên và đưa miền Nam tới đổ vỡ, rơi vào tay cộng sản.

Sau cái chết cuả TT Diệm, gia đình họ Ngô vị nào còn ở trong nước thì lo sợ bị giết, vị nào đã ra nước ngoài thì buồn vì mất những người thân và chán tình đời đen bạc.

Người viết bài này là người theo đạo Phật. Nhưng Chúa Jesus hay Phật Thích Ca thì cũng dạy tín đồ của mình nên làm điều lành, tránh điều ác, chứ không như Marx, dạy bọn cộng sản đấu tranh, hận thù giai cấp , giết người như Việt cộng đã làm tại Việt nam từ 1945.

Thời gian qua đi gần nửa thế kỷ, kể từ ngày TT Diệm bị bọn khốn nạn hạ sát, đã bao nhiêu giấy mực viết về tài đức của TT Diệm, nhưng thiết nghĩ chưa đủ để bù đắp những công lao của người vị quốc vong thân.

Nhận xét của người viết bài này có thể gây hiểu lầm, hoặc giả có người cho rằng, người viết có liên hệ huyết thống, đồng hương hay cùng tôn giáo với ông Diệm.

Xin nói rõ, người viết quê Hanoi, theo đạo Phật, di cư vào Nam lánh nạn cộng sản từ năm 1955.

NHỮNG TÀI LIỆU DẪN CHỨNG VỀ LỊCH SỬ HOA KỲ:

Skeptical of the new President’s strength, Khrushchev apparently tried to bully him , demanding “adjustment of the situation in West Berlin and Taiwan; neither of the two areas, he warned, could stay as they were indefinitely. Kennedy replied with a defense of existing conditions and warned that the United States could not watch more territory go to Communist without taking action. Khrustchev answered that revolution was sweeping the world; the Soviet Union, he said, would assist the process. Kennedy left the meeting angry and shaken.

(Hoài nghi về sức mạnh của tân Tổng thống, Khrushchev rõ ràng cố dọa ông (Kennedy), đòi hỏi điều chỉnh lại tình trạng ở Tây Bá linh và Đài loan: Ông ta báo trước rằng, 2 nơi này không nơi nào còn có thể tồn tại mãi như từ trước tới nay. Ông Kennedy trả lời quyết tâm bảo vệ tình trạng hiện hữu và cảnh cáo rằng Mỹ không khoanh tay nhìn đất đai rơi thêm vào tay cộng sản . Khrushchev đáp rằng: Cách mạng (!) đang lấn át thế giơí (!) : Liên bang Sô viết sẽ trợ lực việc này (điều này làm rõ thêm việc 5 cố vấn Liên sô có mặt ở Long Khánh, như tiết lộ cuả cựu đại sứ Pháp Mérillon)

Ông Kennnedy đùng đùng giận dữ rời phòng họp. (cột 1, trang 835, American History. Tác giả Allen Weinstein và R. Jackson Wilson).

Khrushchev huênh hoang như vậy, nhưng lại bị Leonid Brezhnev, trùm mật vụ KGB, hạ bệ sau 3 năm (1964) Điều đặc biệt, khi Khrushchev chết (1971), Brezhnev không cho ai được đi đưa đám tang, vì tư thù cá nhân, trước kia, khi còn mang cấp thiếu tá, dưới quyền của Krushchev, Brezhnev đã bị Khrushchev tát tai. Cũng như cáo Hồ không cho ai đi đưa đám ma ông Phan Khôi, một học giả nổi tiếng và là người chủ trương Nhân văn giai phẩm, một nhen nhúm tự do ngôn luận. Và, cũng như Lê chột cai đồn điền và Đỗ hoạn heo, đã ra lệnh dẹp bỏ dòng chữ phúng điếu VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC của đám tang cố Trung tướng Trần Độ, có thể cũng là việc tư thù cá nhân trong thời gian làm việc.

Chế độ cộng sản Việt Nam tan rã thì những bí mật về thâm cung bí sử sẽ được phơi bày, như truờng hợp Hồ chí Minh ăn nằm với nữ hộ lý Nông thị Xuân, đẻ ra Nguyễn tất Trung (đã có 1 con trai, đang sống tại Hanoi. Và gần đây, một phụ nữ tên Huỳnh thị Xuân, tỉnh Quảng Ngãi, đã viết một bài kể rõ năm 1964, khi mới 15 tuổi, được đưa ra Bắc gặp Hồ, và bị bác Hồ dâm đãng hiếp trong đêm gặp mặt).

Con trai Khrustchev, tị nạn qua Mỹ, được Mỹ bao dung, tốt nghiệp kỹ sư điện toán, cũng chẳng khác vợ Fildel Castro tị nạn qua Mỹ và được Mỹ bao dung. Con Khrushchev đã tuyên thệ, trở thành công dân Mỹ năm 1992. Người chắt gái là Nina Khrushcheva, hiện là giáo sư ở đại học New School University, New York. Và, con gái Võ nguyên Giáp, con bà vợ lớn Nguyễn thị minh Thái, tốt nghiệp tiến sĩ tại Nga, cũng đã qua dạy học, sinh sống tại Mỹ nhiều năm và đã tuyên thệ trở thành công dân Mỹ (1995).

Ngày nay tuyệt đại đa số những cán bộ Việt cộng có chức, có quyền, rất nhiều tên gửi con ra nước ngoài du học. Du học chỉ là một phần, phần chính là chuyển tài sản tham nhũng ra nước ngoài để phòng xa khi chế độ cộng sản Việt Nam không còn tồn tại.

Sau khi đế quốc đỏ tan ra từng mảnh, chủ nghiã dân chủ tự do đã đại thắng chủ nghĩa không tưởng, phi nhân cộng sản cuối tháng 12 năm 1991.

Kết quả của đại thắng lợi này đã ảnh hưởng rất nhiều đến giới trí thức và các nhà văn, nhà báo ở Việt nam. Nó bùng phát vào giai đọan truyền thông bành trướng mạnh trên toàn thế giới.

DẪN CHỨNG THÊM VỀ KẾ HOẠCH CỦA TT KENNEDY ĐẢO CHÁNH TT DIỆM VÀ ĐƯA QUÂN ĐỘI LÊN NẮM QUYỀN

....Then, probably with the covert support, and certainly with the knowledge of the American government, the South Vietnamese military took over the country on November 1rst, 1963. Diem and his brother were executed. What Kennedy might have done next is speculation; he outlived Diem by only three weeks..

(Rồi tin vào sự yểm trợ ngầm và chắc chắn bằng vào sự thông hiểu của chính phủ Hoa Kỳ, quân đội Nam Việt nam cướp chính quyền từ 1-11-1963. Ông Diệm và người em bị giết. Những điều gì ông Kennedy dự tính làm tiếp theo sau đó cũng chỉ là dự tính, ông sống lâu hơn ông Diệm chỉ có 3 tuần)(American History trang 838. Tác giả Allen Weinstein và R Jack Wilson).

Lịch sử Hoa Kỳ ghi lại: Vào một tuần, đầu tháng 10 năm 1962, Khrushchev trong ý đồ thống trị thế giới, hắn cho tàu chiến Liên xô đưa hoả tiễn có đầu đạn nguyên tử qua Cuba. TT Kennedy và lưỡng viện quốc hội họp khẩn cấp để tìm biện pháp trả đũa. Ủy ban Hành động được thành lập. Một kế hoạch phong toả Cuba được tung ra, đồng thời TT Kennedy lên đài truyền hình 22-10-1962, tuyên bố 7 điểm trả đũa. Hoa Kỳ mỗi ngày cho 3 chiếc máy bay do thám U 2 bay trên không phận Cuba. Nếu phi cơ thám thính này bị bắn, lập tức Hoa kỳ tung ra cuộc đổ bộ lên Cuba. Bào đệ của TT Kennedy là Robert Kennedy, bộ trưởng Bộ Tư Pháp, cảnh cáo Đại sứ Liên xô Dobrynin rằng còn 2 ngày là hạn chót để Liên xô rút hoả tiễn khỏi Cuba.

Một Đại tá tình báo Liên sô tên là Alexander Fomin gọi điện thoại cho ký gỉa đài truyền hình ABC, John Scali, yêu cầu đến gặp anh ta khẩn cấp. Scali từ chối. Fomin nài nỉ vì có việc khẩn cấp. Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đồng ý cho Scali gặp Fomin. Hai người như là người trung gian.

Fomin đưa ra đề nghị 3 điểm:

Một là Liên sô rút hết hoả tiễn về.

Hai là Nga sẽ không đưa vũ khí tấn công vào Cuba nữa.

Ba là Hoa Kỳ phải hứa không tấn công Cuba.

Scali và Fomin đã gặp nhau 2 lần. Cuối cùng Khrushchev gửi thư cho TT Kennedy nội dung tỏ ý lo ngại chiến tranh nguyên tử xẩy ra.

Điều này cho thấy lãnh tụ Liên sô “già dái non hột”. Và tài liệu trên chứng minh thêm rằng TT Kennedy quyết tâm đưa quân chiến đấu vào Việt nam, để chặn vết đỏ loang dần xuống miền nam châu Á.

Tổng thống Kennedy tiếp quản Việt nam

(trích từ cuốn President Kennedy: Profile of Power cuả tác giả Richard Reeves, đăng trên SanJose Mercury News 31-10-1993)

Phần dẫn nhập của SanJose Mercury News:

.... Ngày 1-11-1963 TT Kennedy làm cho Mỹ liên lụy vào cuộc chiến Việtnam. Dưới đây là những biến cố quyết định đưa đến việc lật đổ Tổng thống miền Nam Việt Nam do Hoa kỳ hậu thuẫn: Ông Ngô đình Diệm - chỉ vì ông Diệm không tuân hành các chính sách và lệnh được ban ra từ Hoa Thịnh Đốn và thay thế bằng các sĩ quan, để chấp nhận sự sai khiến của Mỹ.

------------

17,000 quân Mỹ ở Việtnam thời kỳ này, so với 700 người khi ông Kennedy lên làm Tổng thống năm 1961. TT Kennedy tuyên bố ông hy vọng giảm con số xuống còn 1,000 năm 1964, cố gắng áp lực ông Diệm và người em là ông Ngô đình Nhu, để đạt được sự điều khiển của Hoa kỳ.

Nhưng hầu như chẳng có hiệu quả nào đáng kể đối với anh em ông Diệm.

Ông Cabot Lodge là đại sứ Mỹ. Đại tá Lucien Conein là sĩ quan tình báo liên lạc với các tướng lãnh Việt nam. Ông David Halberstam là thông tín viên cho tờ New York Times ở Saigon. Tướng Big Minh là một trong số các tướng lãnh đảo chánh.

Phần trích từ cuốn President Kennedy: Profile of Power:

Ngày 17-10-1963, trong bản lượng định tình hình hàng tuần lên Tổng thống, thu gọn vào phản ứng về miền Nam Việt nam trong các bài nói chuyện và hoạt động công khai.

“Những bài trình bày trước đây mang một ấn tượng sai lầm rằng sự thông đồng của ông Diệm và ông Nhu đang sửa soạn tiến sâu vào cuộc chiến tranh tiêu hao, trường kỳ với Mỹ, chống các áp lực cải cách, gồm cả việc cắt giảm viện trợ. Một khả năng nhỏ hơn, nhưng không thể bỏ qua, đó là ông Nhu đang đôn đốc các viên chức tách khỏi ảnh hưởng của Mỹ, nước trước đây đã đưa ông Diệm lên nắm quyền.”

Vào ngày thứ hai 21-10-1963, TT Kennedy ăn trưa tại toà Bạch ốc với ông Arthur Ochs Sulzberger, chủ báo New York Times. Ông Kennedy bộc trực nói với ông Sulzberger về tình hình phức tạp ở Saigon, rồi bảo: “ Tôi rất mong ông rút Halberstam”.

Bửa cơm tối hôm đó, ông chủ báo bàn vấn đề này với ông James Reston, trưởng văn phòng ở Washington. Ông Reston trả lời rằng : “Này! chúng ta không làm được những điều chúng ta có thể làm. Mình không thể uốn mình khuất phục theo kiểu đó.”

Vì vậy ông Halberstam, người tưởng như nhận lệnh trở về Mỹ, lại được báo cho biết nên ở lại Saigon thêm một thời gian.

Tại Hoa Thịnh Đốn, ông Kennedy nổi cáu, nói với ông Bộ truởng Quốc phòng Robert Mc Namara: “Cách duy nhất làm bẽ mặt báo chí là phải thắng trong cuộc chiến.” (Ý nói lật đổ ông Diệm bằng được)

Sự kiểm soát và giảm bớt

Danh từ “kiểm soát và giảm bớt” là một đoạn câu ngắn của ông cố vấn an ninh quốc gia Mc Goerge Bundy dùng, khi ông chuyển lệnh của Tổng thống cho ông Cabot Lodge ngày 23-10-1963:

“Tổng thống Kennedy muốn kiểm soát nhiều hơn để ông có thể khắc phục kế hoạch đảo chánh, nhưng ông cần giảm bớt hệ thống chỉ huy”.

Có một số người phổ biến lệnh trên mà không biết đó là lệnh của Tổng thống.

Chiều tối ngày 29-10-1963, ở Saigon, ông Lodge gửi điện về Hoa Thịnh Đốn, lúc 8 giờ sáng giờ Hoa Thịnh Đốn. Bức điện nói: “Có dấu hiệu tỏ ra rằng cuộc đảo chánh của các tướng lãnh sắp xẩy ra. Bất kể cuộc đảo chánh thành công hay thất bại, chính phủ Mỹ phải nhận lãnh sự quở trách không thể biện bạch nổi, và cuối cùng không có hành động thích ứng bởi chính phủ có thể ngăn cản cuộc đảo chánh, trừ phi báo ngay cho ông Diệm và ông Nhu với tất cả sự khinh rẻ do hành động này gây ra.”

Một giờ rưỡi sau, một bức điện tín khác của ông Lodge báo cáo:

“Các tướng làm đảo chánh đang sắp đặt đẩy lui gia đình họ Ngô.”

Vào 4 giờ chiều hôm thứ ba, 29-10-1963, ở Hoa Thịnh Đốn – tức là 5 giờ sáng ngày 30-10-1963 ở Saigon, TT Kennedy họp trong văn phòng chính phủ với nhóm chuyên viên về Việt nam. Ông bắt đầu báo cho họ biết rằng, cho tới khi được báo thêm, tất cả các bộ, các cơ quan (bộ Ngoại giao, Quốc phòng, Tham mưu liên quân, Tình báo, Cơ quan thông tin), mỗi cơ quan gửi báo cáo thẳng cho ông.

Bức điện gửi ông Lodge do ông Bundy viết, gửi lúc 7 giờ 22 tối:

“Chúng tôi lo lắng thành phần lực lượng của chúng ta ở Saigon, cho thấy gần quân bình, với tình thế nghiêm trọng và cuộc chiến kéo dài, hoặc ngay cả có thể thất bại. Cả hai trường hợp này đều nghiêm trọng, hoặc giả có thể làm hại quyền lợi của Mỹ, vì thế chúng ta phải bảo đảm lực lượng cân bằng thuận lợi.”

TT Kennedy tức giận vì lời thừa nhận của Đại sứ Lodge rằng tòa Bạch ốc có ý định cố kiểm soát các hoạt động của Saigon.

“Nhờ sự hướng dẫn của ngài, tôi sẽ hết sức thi hành nhiệm vụ.”

Ông Robert Kennedy bào đệ của TT nói: “Ông ấy có vẻ vui mừng. Em đã nói với anh rằng ông ta đang bối rối.”

Những anh em của ông Kennnedy đôi lúc ở trong phòng bầu dục.

TT Kennedy gắt lên:”

“ Em có biết rằng em kỳ cục không? Em luôn luôn nghĩ là em có lý.”

Ông Bundy ký bức điện gửi ông Lodge. Bức điện đến Saigon vào 31-10-1963.

“Chúng tôi không chấp nhận trên căn bản về chính sách của Hoa Kỳ là, chúng ta không có quyền làm trì hoãn, hay ngăn cản cuộc đảo chánh. Nhưng một khi cuộc đảo chánh đặt duới sự lãnh đạo có tinh thần trách nhiệm khởi sự, và trong sự ổn định thu hẹp này, nó nằm trong mối quan tâm của chính phủ Mỹ và cuộc đảo chánh đó cần thành công.”

Đúng 1 giờ sáng hôm thứ sáu 1-11-1963, giờ Washington, điện báo rung lên trong phòng theo dõi tình hình ở tầng trệt toà Bạch ốc. Sĩ quan trực bắt đầu đọc nhưng dòng chữ nhảy trên bảng ghi rằng: “ Flash critic (phân tích ngắn gọn ). Việc chuyển điện văn từ trạm tin của Tình báo CIA ở Saigon, lúc đó là 2 giờ chiều thứ sáu, báo cáo rằng cuộc đảo chánh đang diễn tiến. Sĩ quan trực điện thoại báo cáo cho ông Bundy và vị phụ tá là Michael Forrestal. Họ đợi cho đến 3 giờ sáng để đánh thức TT, và ông Kennedy bảo họ rằng đến phòng ngủ ông lúc 6 giờ sáng.

Diễn tiến công việc lộ ra trên các bức điện của CIA. Bức đầu tiên trong một loạt điện văn, nhận được từ phòng theo dõi tình hình lúc 2 giờ 34 sáng. Đây là một báo cáo bằng điện thoại gọi đến Toà Đại sứ Mỹ của Đại tá tình báo Lucien Conein. Ông ta gọi bằng đường giây đặc biệt, mắc một ngày trước, tại bộ chỉ huy cuộc đảo chánh ở Câu lạc bộ sĩ quan Nam Việt nam, nơi mà ông Conein đã đến và đem theo 42,000 đô la, tiền của Tòa Đại sứ, để phát cho các gia đình sĩ quan, nếu cuộc đảo chánh thất bại.

“Một vị tu sĩ công giáo khổ hạnh, người được TT Kennedy giúp đỡ, biểu dương như vị thánh chống cộng sản, được chôn trong một nấm mồ không ghi dấu,...nằm trong nghĩa trang gần ngay Toà Đại sứ. (nghĩa trang Mạc đĩnh Chi)”

Các bức điện của CIA

“Đề nghị của các tướng làm đảo chánh như sau: “ Nếu TT Diệm từ chức liền, họ sẽ bảo đảm cho sự an toàn của ông ta và sẽ để ông Diệm và ông Nhu ra đi yên ổn. Nếu TT Diệm từ chối thì Dinh Độc lập sẽ bị tấn công.”

Nhận 3 giờ 40 sáng:

“ Ông Conein báo cáo là các tướng làm đảo chánh quyết định không thảo luận với TT Diệm, dù ông ta nói thuận hay không thuận cũng thế.”

Nhận 3giờ 55 sáng:

“ Cuộc nổ súng xẩy ra chung quanh Tòa Đại sứ. Rõ ràng có sự đọ súng qua lại, giữa phiá Tổng thống Việt nam Cộng hòa Ngô đình Diệm có phi cơ và tàu chiến ở trên sông.”

Nhận 4 giờ 11 sáng:

“ Ông Conein báo cáo là tướng Big Minh gọi điện thoại cho TT Diệm. Minh bày tỏ với ông Nhu rằng TT và ông Nhu không từ chức, trao quyền lại cho lực lượng đảo chánh trong vòng 5 phút, Dinh Độc lập sẽ chịu đựng một cuộc không tập nặng nề.”

Bức điện cuối ông Bundy đưa đến phòng ngủ TT Kennedy là bản văn cuộc điện đàm lúc 4giờ 30 chiều giờ Saigon, giữa TT Diệm và ông Lodge (như đoạn viết của Phụng Hồng chứng minh ở phần trên) tại Toà Đại sứ Mỹ.

“Một số đơn vị nổi loạn và tôi muốn biết thái độ cuả Hoa kỳ như thế nào?”Ông Lodge trả lời : “ Tôi nắm không đủ tin tức để nói với ông (bài lờ). Tôi vừa nghe tiếng súng nổ. Nhưng tôi không biết tất cả sự việc. Ở Washington lúc 4 giờ 30 sáng cũng vậy, chính phủ Mỹ không có khả năng có liền nhận xét.”

Dưới đây là minh chứng về câu trả lời không thật thà của ông Lodge. Tài liệu lưu trong thư viện Tổng thống Gerald Ford:

“Hồ sơ này ghi lại buổi nói chuyện cuối cùng của Tổng thống Diệm bằng điện thoại với Đại sứ Henry Cabot Lodge. Ông Diệm hỏi rằng thái độ của Hoa kỳ thế nào về âm mưu đảo chánh và ông Lodge trả lời thiếu trung thực rằng tôi thấy không đủ tin tức để nói về lập trường của Hoa Kỳ hiện nay.”

DOCUMENT 23

Department of State, John M. Dunn, Memorandum for the Record, November 1, 1963

SOURCE: Gerald R. Ford Library: Gerald R. Ford Papers: National Security Adviser's Files: NSC Convenience File, box 6, folder: Henry Cabot Lodge, inc. Diem (2)

This document records President Ngo Dinh Diem's last conversation on the telephone with Ambassador Henry Cabot Lodge. Diem asks what is the attitude of the United States toward the coup plot and Lodge replies, disingenuously, that he does not feel well-enough informed to say what the U.S. position actually.

Ông Diệm đáp: “Tôi cố gắng làm hết bổn phận tôi.”

Ông Lodge nói: “Như là tôi trình bày với ông sáng nay, tôi ngưỡng mộ lòng can đảm của ông và những đóng góp lớn lao cho đất nước ông. Nêu tôi có thể làm bất cứ điều gì để giữ an toàn cho bản thân ông, ông làm ơn gọi điện thoại cho tôi.

Câu trả lời đầu tiên, chính thức của Hoa Kỳ cho cơ quan thông tấn AP để báo cáo về cuộc đảo chánh chỉ có một câu đơn giản. Câu này đã được TT Kennedy chấp thuận và được đưa cho ký giả bởi phát ngôn viên từ bộ Ngoại giao : “ Tôi có thể khẳng định rằng chính phủ Mỹ không dính dáng gì đến cuộc đảo chánh bằng bất cứ cách nào.”

Câu trên minh chứng cố TT Kennedy ném đá dấu tay.

TT Kennedy chấp thuận việc hướng dẫn đầu tiên cho đại sứ Lodge, được gửi đi hôm thứ bảy, buổi chiều giờ Washington: “Nếu cuộc đảo chánh thành công, sự chấp thuận và hiểu biết mục đích của nó sẽ là sự gia tăng lớn, nếu các tướng làm đảo chánh và những người cộng tác phía dân sự bày tỏ mạnh mẽ, công khai, kết luận được báo cáo về một trong những tin tức của họ được truyền đi, nói rằng ông Nhu đã mặc cả với cộng sản để phản bội sự nghiệp chống cộng. Lập luận này có giá trị cao, nên được nhấn mạnh cho họ“ (Phà hơi cho nhóm tướng phản bội vu vạ cho ông Nhu).

Ông ta chờ đợi cái gì?

Vào 8 g tối ngày 2-11-1963, giờ Saigon, tức 7 giờ sáng Washington, ông Lodge gửi bức điện :

“Một nguồn tin đáng tin cậy đưa ra câu chuyện dưới đây, về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Họ bị quân đội bắt đưa vào một chiếc xe nhà binh và bị khóa kín. Nguồn tin này không biết những gì xẩy ra sau đó. Hoặc giả họ (Ông Diệm và ông Nhu) sống hay bị giết hoặc tự tử.”

Bức điện đó đến Bách ốc 9 giờ sáng thứ bảy 2-11-1963, lúc TT Kennedy xuống tầng dưới để họp bàn về cuộc khủng hoảng. Khi Tổng thống ngồi xuống, ông gật đầu chào mọi người. Ông Forrestal bước vào cầm bức điện của ông Lodge. Ông ta trao cho Tổng thống. Khi TT Kennedy nhìn bức điện, ông đứng dậy chạy sô ra khỏi phòng, không nói một lời nào, trông mặt ông ta tái mét và run run. Những người khác nhìn nhau. Tướng Maxwell Taylor, tham mưu trưởng liên quân, nói rằng: ‘TT chờ đợi cái gì? (ý nói điều TT mong mỏi đã đạt được sao lại buồn).

Ông Diệm và ông Nhu đã bị giết sau khi ông Diệm xin hàng Big Minh. Tướng này đưa quân đến nhà thờ ở Chợ lớn (Việt nam gọi là nhà thờ cha Tam, nhưng tác giả viết là Don Than Church). binh sĩ đưa họ lên phía sau chiếc thiết vận xa M113, lái đi một đoạn đường và bắn cả hai vào sau ót. Xác của họ bị đâm nhiều nhát lưỡi lê.

Một vị tu sĩ công giáo khổ hạnh, người được TT Kennedy giúp đỡ, biểu dương như vị thánh chống cộng sản, được chôn trong một nấm mồ không ghi dấu, nằm trong nghiã trang gần ngay Toà Đại sứ (nghĩa trang Mạc đĩnh Chi; ( sau 30-4-1975, Việt cộng vào chiếm Saigon, đã san bằng trên 100 nghĩa trang, mà nghiã trang Mạc đĩnh Chi là nghĩa trang bi dẹp đầu tiên. Hài cốt hai ông Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu được người thân di dời về đất riêng tại Bình Dương trước ngày Việt cộng chiếm Saigon. Xin đọc phần trích dẫn, bài của ông Trương phú Thứ)

Đề cao ông Lodge

Hôm thứ tư, 6-11-1963, TT Kennedy gửi cho Đại sứ Lodge bức điện văn như sau:

(Nhận xét của TT về ông Lodge)

“Sự lãnh đạo của ông trong việc tập trung và hướng dẫn toàn chiến dịch của Hoa Kỳ ở Nam Việt nam trong những tháng trước đây là một việc tối ư quan trọng. Những hành động riêng của ông tỏ rõ chúng ta muốn cải thiện, và những điều này không đạt được nơi chính phủ của ông Diệm, chúng ta cần đương đầu và chấp nhận trong khả năng, mà lập trường của chúng ta nên thay đổi chính phủ. Vì vậy chúng ta có trách nhiệm giúp chính phủ mới, để họ làm việc hữu hiệu bằng mọi phương cách mà chúng ta có thể làm.

Rất mong ông chu toàn nhiệm vụ.

John Kennedy.

Hai mươi ngày sau đó, vào ngày 22 –11- 1963, bản thân Tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas, bang Texas.

Vài dòng với quí vị Phụng Hồng, Mai tiến Tiệm, Giáo sư Toàn Phong Nguyễn xuân Vinh, Ông Hà thượng Nhân, giáo sư Tôn thất Thiện, giáo sư Nguyễn ly Châu, bác sĩ Lê văn Sắc, quí ông Tôn thất Đính, Phan đức Minh, Vũ quang Ninh, giáo sư tiến sĩ sử học Hoàng ngọc Thành và bà Thân thị Nhân Đức, quí ông Trần gia Phụng, Đinh quang Anh Thái, bà Dương thu Hương, Ông Nguyễn chí Thiện, Ông Lâm lễ Trinh và cố Đại tướng Cao văn Viên, quí ông Ngô thế Linh, Trương phú Thứ, Trần khắc Kính, Lê Dân, Trần bình Nam và gần đây Giáo sư Sử Học Phạm văn Lưu

(trong bài viết nhan đề: Quan điểm của ông Ngô đình Nhu về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng, sau khi ông Lưu đọc tác phầm Chính để Việt Nam của Ông Ngô đình Nhu. Bài viết dài. Xin phép Giáo sư Lưu cho tôi được đưa vào phần cuối của Bài Đôi dòng nhìn lại để độc giả chưa đọc có thể đọc và biết thêm về sự tiên đoán của một nhà chính trị đã bỏ mình vì nước : Ông Ngô đình Nhu). Vì không rõ địa chỉ để liên lạc xin phép trích đăng từng phần, hoặc toàn bài để dẫn chứng qua những bài viết của quí vị .

Mong được quí vị miễn thứ.

- Xin cám ơn ông Ngô Kỷ đã không những vui lòng cho tôi trích đăng tài liệu của ông tìm tòi trong các thư viện Mỹ, mà ông còn cung cấp cho tôi thêm tư liệu, giúp tôi hoàn tất bài viết này.

- Xin cám ơn anh Nguyễn mạnh Hoàng, không những chuyển tới thêm tư liệu cho tôi, mà còn giúp tôi chỉnh sửa những phần cần thiết cho bài viết.

Xin thêm 3 bài viết, một bài của tác giả Vũ quang Ninh, một bài của tác giả Hà thượng Nhân, một bài của giáo sư Hoàng ngọc Thành và bà Thân thị Nhân Đức.

Bài của tác giả Vũ quang Ninh, đăng trên website Anh duong:

Nhân kỷ niệm cuộc chính biến 01//11/1963

Tưởng nhớ Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Câu chuyện Thời sự của Little Saigon Radio ngày 2/11/05

Vũ Quang Ninh

Nhân dịp kỷ niệm cuộc chính biến 01/11/1963 trong Câu Chuyện Thời sự hôm nay, chúng tôi xin chia sẻ một vài cảm nghĩ về Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Trong vòng hai tuần lễ nay, Cộng đồng chúng ta ở nhiều nơi đã và sẽ có sinh hoạt tưởng nhớ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam bị sát hại trong điều kiện thê thảm. Với các bạn trẻ ngày nay, nhắc đến vị Tổng Thống sinh ra từ đầu thế kỷ, hiển nhiên là điều cần thiết cho ký ức lịch sử. Với Quí vị cao niên và trung niên, điều cần thiết vì phần nào tìm hiểu tại sao Đất Nước ta lại lâm vào hỗn cảnh bi thương năm 1975, cho đến nay vẫn chưa dứt.

Vào thập niên 50, cục diện thế giới gặp hai trào lưu trái ngược. Một đàng là phong trào giải thực của các nước bị thực dân Âu châu cai trị, đàng kia là phong trào cộng sản quốc tế muốn tranh thủ các nước đang giành lại độc lập từ tay thực dân. Việt Nam chúng ta gặp cả hai phong trào đó. Nỗ lực đấu tranh giành độc lập của Việt Nam đụng phải thái độ ngoan cố mà bất nhất của Pháp. Ngoan cố vì không muốn Việt Nam thực sự độc lập như họ cam kết năm 1948, bất nhất vì họ còn muốn duy trì chế độ thuộc địa đằng sau khẩu hiệu tự do, chống làn sóng đỏ. Một người muốn phá vỡ cái thế lưỡng nan đó chính là chí sĩ Ngô Đình Diệm.

Ông quyết tranh đấu để chấm dứt chế độ thực dân và đem lại cho dân ta quyền xây dựng nền móng của một quốc gia độc lập chưa từng có kể từ năm 1884, khi Pháp cưỡng bách nhà Nguyễn ký Hiệp ước Giáp Thân. Đồng thời, ông hiểu rõ nguy cơ cộng sản vô thần và chuyên chính, tàn bạo nên ra sức củng cố nền móng non yếu của chế độ Cộng hòa trên một Đất Nước chỉ biết chế độ quân chủ và phong kiến từ hơn ngàn năm. Và ông phải làm điều đó khi miền Nam đột ngột tiếp nhận làn sóng đồng bào di cư từ miền Bắc, so ra thì bằng hơn 12% dân số miền Nam lúc đó.

Vì vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy Pháp và tay chân còn lại của họ tìm mọi cách gây bất ổn cho buổi giao thời ở Việt Nam. Bên kia, Cộng sản Hà Nội bắt đầu mở ra chiến tranh phá hoại để cản trở việc xây dựng một miền Nam tự do. Chí sĩ Ngô Đình Diệm còn gặp trở ngại nữa, là một số đảng phái lại đòi ông kiến thiết xứ sở theo ý kiến mà chính họ chưa thống nhất với nhau, và đã tranh giành chức vị, nhưng vẫn muốn ông phải nghe theo. Mặc dù vậy, ông Diệm được dân bầu lên làm Tổng Thống và cơ chế dân chủ non yếu thời đó vẫn lập ra được bản Hiến pháp thật tiến bộ.

Miền Nam mạnh dần làm Hà Nội lo ngại và họ mở chiến dịch Đồng Khởi năm 1960, để cơ sở khỏi bị tiêu diệt. Những gì ta biết được về Hà Nội sau năm 75 đã minh chứng cho sự thật đó. Cho nên, ngày nay nếu phê phán ông Diệm thì cần xét toàn bộ hòan cảnh của bản thân ông và của nước ta trong bối cảnh Á Châu khi đó các lân bang lúc đó còn chưa có dân chủ, từ Nam Hàn, Đài Loan tới Thái Lan, Nam Dương hay Phi Luật Tân, Miến Điện.

Cuối thế kỷ này, là 30 năm sau, ta mới nói tới làn sóng dân chủ Á Châu, chứ lúc đó, không xứ nào lên án Việt Nam là độc tài, dù là sau chiến tranh Cao Ly, nước ta mới ở tuyến đầu, để hứng chịu mũi dùi xâm lược của cộng sản quốc tế.

Người ta cứ nói về nạn độc tài, gia đình trị và cả tội đàn áp tôn giáo của Tổng Thống Diệm. Giờ này, nhiều tài liệu lịch sử được giải mật cho thấy chế độ Ngô Đình Diệm có thể phạm lầm lỗi, chứ không hề chủ đích triệt hạ hoặc kỳ thị tôn giáo. Đại sứ của ta tại Liên Hiệp Quốc thời đó là giáo sư Bửu Hội, vốn thuộc gia đình Phật giáo có uy tín, từng trưng bày sự thật đó tại Liên Hiệp Quốc với thống kê cho thấy viên chức công quyền xứ ta đa số là Phật giáo và không bị kỳ thị. Phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc gửi qua hồi tháng 10 năm 1963 cũng xác nhận rằng: không có đàn áp tôn giáo tại Việt Nam.

Bao chứng liệu lịch sử Mỹ được mở ra gần đây cho thấy ông Kennedy tính việc tái tranh cử, nên thổi phồng và ngụy tạo sự kiện để cột ông Diệm vào tội độc tài và đàn áp Phật giáo, hầu lật ông để thực hiện mưu tính riêng tư. Ông Diệm không nhượng bộ và một số người tuân theo Mỹ đã thi hành điều Kennedy dự tính, là đảo chánh và sát hại ông Diệm và bào đệ. Ông Kennedy chết sau đó ba tuần nên Tổng Thống Johnson mới lãnh di sản: chiến cuộc xứ ta bị đảo chánh liên miên, xã hội đảo điên, dân tâm ly tán, chiến tranh càng tăng, mầm thất bại càng rõ, dù bao thế hệ Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cố hy sinh chống đỡ.

Chúng ta ngày nay có tự do và thông tin, có nhiều tài liệu về Việt Nam đã được giải mật. Vì thế xin cố gắng gạt bỏ những thành kiến, những thiên kiến, những tin đồn ác ý xuyên tạc còn tồn tại để chúng ta khách quan nhìn lại trang sử u tối đó mà thương tiếc một vị lãnh đạo quốc gia đã thực sự hy sinh cho dân tộc và làm ta không xấu hổ vì chữ “quốc gia”.

Và tiếc thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng ta cũng xót thương bao xương máu đã bị hao phí trước và sau đó mà chưa xây dựng nổi một quốc gia đúng nghĩa.

Xin hãy công bình với lịch sử, xin hãy trả lại vị trí đúng cho các nhân vật đã tạo nên lịch sử.

“Tổng thống Diệm là người rất kiệm ước. Ăn thì chỉ ăn rau, ăn cá kho,những thức ăn mà người dân trung bình vẫn thường ăn. Thuốc lá thì hút thứ rẻ tiền. Chỗ ở của Tổng thống không có gì xa hoa lộng lẫy hết”

Bài của tác giả Hà thượng Nhân, tựa đề :

NHỚ LẠI NHỮNG ĐIỀU KHÓ QUÊN.

Năm 1956, trong một tiệc rượu gia đình, luật sư Lê ngọc Chấn, nguyên là Bộ trưởng Quốc phòng hỏi tôi : “Chú phục ông Ngô đình Diệm. Vậy theo chú, ông Diêm giỏi ở chỗ nào?” (Tôi với ông Chấn là anh em bạn rể). Tôi cười hỏi lại: “Giỏi là như thế nào?” Rồi thêm “người lãnh đạo cần phải có uy tín. Cụ cố Ngô đình Khả, được mọi người truyền tụng là : “Đầy vua không Khả”. Vậy thì về dòng dõi, TT Diệm có một người cha cương cường, có khí tiết. Ngoài 30 tuổi đã làm đến Thượng thư Bộ Lại. Suốt triều đình đã có ai, ở tuổi ấy, có một địa vị lớn như vậy chưa?

Vậy mà chỉ làm việc trong một thời gian ngắn, khi thấy kế hoạch của mình không thực hiện được, ông đã khảng khái từ chức. Đã mấy ai làm được như vậy? Từ quan rồi về nhà âm thầm hoạt động chính trị. Ông nhiều lần từ chối khi Cựu Hoàng mời ra thành lập chính phủ. Như thế có phải là người có chí hướng không? Đến khi đất nước chia đôi, nạn sứ quân hoành hành, ông đứng ra nhận một trách nhiệm cực kỳ khó khăn. Và ông đã hoàn thành, đã ổn định được miền Nam, đã thống nhất được quân đội, đã dẹp được Bình Xuyên, đóng cửa Đại Thế Giới, như thế không phải là cái công lớn sao? Đất nước từ bấy giờ mới thực sự có thể thống. Thế là giỏi đấy.

Luật sư Chấn bảo: “Ông Diệm làm được như thế vì có Mỹ yểm trợ, vì thời cơ thuận tiện”. Tôi trả lời: “Không có ai đơn độc mà làm được việc hết., De Gaulle cũng dựa vào Anh, Mỹ. Nhưng dựa vào Anh , Mỹ không phải là làm tay sai cho Anh, Mỹ. De Gaulle vẫn là anh hùng của nước Pháp. Có thời cơ là một chuyện, nhưng biết nắm lấy thời cơ là một chuyện khác. Ngoài cái vốn kiến thức, cái tài biết dùng người, người lãnh đạo còn cần, và cần hơn hết là cái tâm, cái tâm hết sức thành với đại nghĩa, đối với dân, đối với nước. Tổng thống Diệm có thể có những khuyết điểm, nhưng cái tâm vì nước vì dân của ông tôi cho là lớn: Tôi đọc thêm câu thơ trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cái uy của người lãnh đạo.

Có một số người thường chê Tổng thống Diệm quan liêu, phong kíến. Và họ kể ra làm ví dụ việc một vị Bộ trưởng đi giật lùi làm vỡ cái lọ thống cổ. Nếu như sự việc đó là có thật thì tôi nghĩ không phải Tổng thống Diệm quan liêu, mà là vị Bộ trưởng kia phải nịnh bợ, “lấy điểm” đến như vậy.

Ai làm Tổng thống lại chẳng có quyền lớn. Ông Nguyễn văn Thiệu cũng vậy chứ. Và cũng chẳng thíếu gì kẻ tìm mọi cách nịnh bợ ông Thiệu để chiếm địa vị. Nhưng tôi dám chắc, chưa một kẻ nào, dù nịnh giỏi đến đâu, lại dám trơ trẽn đi giật lùi để lấy lòng ông Thiệu. Ông Thiệu chưa đủ cái uy ấy. Ông ấy không có dĩ vãng. Ông chỉ đoạt được chức Tổng thống nhờ thời cơ run rủi. Chẳng ai coi ông là nhà lãnh đạo cả. Và bởi thế, trong thâm tâm, không ai “nể” ông và “sợ” ông thực sự.

Tôi nhớ khi đắc cử Tổng thống lần đầu, tôi và anh Phan lạc Phúc đại diện báo Tiền tuyến đã làm một cuộc phỏng vấn ông Thiệu. Suốt buổi chỉ có tôi hỏi. Tôi hỏi 3 câu:

Thưa TT, ngày trước, thuở thiếu thời, có bao giờ Tổng thống nuôi cái mộng làm nguyên thủ quốc gia không”?

Ông Thiệu cười lớn xua tay:

- Không,! không! không bao giờ.

Tôi cũng cười và nói thêm: “Kể cũng lạ. Một anh kép hát, một ký giả tầm thường như tôi chẳng hạn, từ khi mới khôn lớn đã nghĩ rằng ta chắc chắn sẽ làm báo. Thế mà làm người đứng đầu nước, Tổng thống lại không hề có cái chí ấy.

2- Tổng thống có chống cộng không?

Ông Thiệu trả lời vội vã:

- Có chứ! Có chứ !

- Thưa vì sao mà chống?

- Vì chúng nó độc tài tàn ác quá mà.

- Tổng thống có nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản không?

- Có.

- Thế thưa Tổng thống, trong chủ nghĩa cộng sản, điểm nào là điểm sai nhất?

- Ông Thiệu gạt đi:

- Chuyện này dài lắm, nói một lúc không hết được.

3- Thưa TT, TT có hay đọc sách không?

- Có chứ.

- TT đọc sách tiếng Việt hay sách ngoại quốc?

- Cả hai.

- Sách tiếng Việt TT thích đọc là sách nào?

- Đọc nhiều quá, không nhớ hết.

- Tổng thống thích đọc tác giả nào nhất?

- Cái đó cũng tùy.

- Tác giả ngoại quốc mà Tổng thống thích đọc là ai?

- Bấy giờ đang chiếu phim “Thằng Gù Đền Đức Bà của Victor Hugo.

- Ông Thiệu liền nói :”Victor Hugo”

- Vì sao TT thích Victor Hugo?

- Hay, hay lắm.

- Khi ra về, đại tá Lâm, vị sĩ quan thân cận của ông Thiệu đi theo tôi và nói : “Sao anh lại làm khó Tổng thống thế?”

- Tôi tự hỏi rằng: Liệu đối diện với tổng thống Diệm tôi có đặt những câu hỏi như thế không? Chắc chắn là không. Vì hỏi như thế, tôi sẽ tự cho mình là hỗn hào. Nhưng với ông Thiệu thì không. Cùng là Tổng thống, tôi đố ai dám nói là cùng kính trọng ông Thiệu và ông Diệm như nhau.

Chủ quyền quốc gia.

- Năm 1960, tôi là giám đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh kiêm đài Saigon. Cố vấn Mỹ của tôi là ông Kibling. Ông Kibling đề nghị với tôi, dành cho ông một phòng ở Đài phát thanh để tiện liên lạc. Tôi từ chối và nói với ông Kibling “Nước Mỹ giúp chúng tôi để chống cộng sản, xây dựng tự do dân chủ. Đây là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, một cuộc chiến tranh nặng nề chính trị. Người nào có chính nghĩa sẽ được lòng dân. Được lòng dân là thắng. Ông đến ngồi ở đây thì có khác gì chúng tôi cung cấp cho đối phương những chứng cớ để họ tuyên truyền trong dân chúng rằng chúng tôi là tay sai của các ông, chúng tôi không chiến đấu vì quốc gia dân tộc, mà vì đồng đô la của các ông. Xin ông đừng để cho đối phương lợi dụng.”

Ông Kibling vẫn không hiểu hay cố tình không hiểu. Tôi ngại rằng, người ta sẽ nhân cơ hội này xuyên tạc mình là người chống Mỹ. Vì vậy tôi xin yết kiến Tổng thống Diệm và trình bày vấn đề. Tổng thống Diệm nghe xong gật gù nói : “ Phải! Phải! làm rất phải. Cố vấn đây chỉ là giúp ta phương tiện kỹ thuật, và nếu cần, ý kiến. Nước là của chúng ta. Anh nói cho người cố vấn của anh hiểu như vậy “

Chịu nghe lời phải

Bấy giờ mỗi ngày tôi phải viết hai bài thơ trào phúng, một cho mục Đàn Ngang Cung của báo Tự do và một cho mục Những Điều Trông Thấy của báo Ngôn Luận. Báo Ngôn Luận thì tôi chỉ cần gửi bài đến. Báo Tự Do thì tôi phải cộng tác chặt chẽ hơn. Một hôm tôi đến tòa soạn thì anh Như Phong,, Tổng thư ký bảo tôi “Ông mau giúp tên Tuyền đi. Y đang bị “táo bón”.

Mục lập trường của Tự Do, do hai người chịu trách nhiệm. Anh Mai Xuyên ( Đỗ thúc Vịnh) và anh Phạm việt Tuyền. Họ thay nhau viết. Anh Tuyền vốn thận trọng nên viết rất chậm, lần nào cũng bị nhà in dục. Tôi lấy giấy ngồi vào cạnh bàn anh Tuyền và hỏi “ “Viết gì đây ?”Anh Tuyền nói “Tùy anh”. Viết đụng chạm một tí được không?

- Được.

Tôi còn nhớ bài ấy tôi viết làm nhiều kỳ và lấy một cái tên mà nếu người không có Hán học chắc là chẳng hiểu được. “Tri Nhân Thiện Nhiệm”. Trong bài tôi kể sự tích đông tây kim cổ. Tôi có nhắc đến Quan Công, Tào Tháo và Lưu Bị. Lưu Bị nghèo, Tào Tháo giàu. Tháo đãi Quan Công rất mực hậu hĩ, nhưng tấm lòng của Quan Công lúc nào cũng hướng về Lưu Bị.

Tôi kết luận : Sở dĩ Quan Công trung thành với Lưu Bị vì Lưu Bị lấy tấm lòng bè bạn, anh em, mà ăn ở với Quan Công. Kẻ sĩ không thể mua chuộc bằng tiền, bằng tước vị. Một chế độ nếu muốn tồn tại, phải được nhiều người có tư cách, kẻ sĩ cộng tác. Bằng chỉ đem tiền và chức tước ra mua chuộc thì trước sau người cộng tác cũng sẽ phản mình, vì lòng tham của con người vốn không đáy.

Bộ Thông tin trong mục điểm báo có cắt bài này để trình Tổng thống. Tôi phải nói thêm rằng ông Bộ trưởng Thông tin lúc bấy giờ không có thiện cảm với báo Tự Do, vì báo này do Phạm việt Tuyền làm chủ nhiệm, mà Phạm việt Tuyền lại là bạn thuở nhỏ, cùng quê với bác sĩ Trần kim Tuyến. Tuyền được bác sĩ Tuyến ủng hộ,mà hình như giữa ông Tuyến và ông Trần chánh Thành có sự gì đó không ăn ý nhau.

Ông Thành nghĩ rằng bài “Tri Nhân Thiện Nhiệm” là do Tuyền viết. Người thường được gọi vào Dinh để trò chuyện là bác sĩ Lý trung Dung. Bác sĩ Dung thuộc phe Tự Do. Tối đó, bác sĩ Dung đọc mục điểm báo cho Tổng thống nghe. Bác sĩ Dung thuật lại rằng, nghe xong bài báo, Tổng thống nói: “Viết phải quá mà! Anh có biết ai viết bài đó không?

Bác sĩ Dung nói bài đó do Thiếu tá Hà thượng Nhân, trưởng phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu viết (chỗ này bác sĩ Dung lầm. Trưởng phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu là Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Tôi chỉ là phó của Trung Tá Châu ( Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý) phụ trách phòng 5 mà thôi).

Tổng thống Diệm liền nhớ ra và bảo: “ Có phải là cái anh viết bài thơ trêu chọc ông Chủ tịch Trương vĩnh Lễ không? “Nguyên do khi ông Trương vĩnh Lễ đắc cử Chủ tịch Quốc hội, tôi vì bí đề tài có viết một bài thơ mừng theo thể luật Thi, đăng trong mục Đàn Ngang Cung.

Bài thơ ấy như sau:

Chắc đại văn hào chủ tiệm in.

Lại từng quản nhiệm báo Thông Tin.

Chữ Tây, tiếng Việt hay ba vạn.

Giấy trắng mực đen đẹp chín nghìn.

Những lúc diễn đàn ông đứng đọc,

Lại khi Quốc hội họ ngồi nhìn

Mới hay làm lớn nhờ âm đức

Mồ mả khen ông khéo giữ gìn.

Ông Lễ đọc xong bài thơ giận lắm, đem trình Tổng thống Diệm rằng ông không biết Hà thượng Nhân là ai, chẳng có thù oán gì với người này. Vậy mà anh ta lại bới móc cả tổ tiên tôi. Tổng thống bảo bảc sĩ Tuyến điều tra xem Hà thượng Nhân là ai. Nhờ bác sĩ Tuyến có cảm tình riêng với tôi nên việc cũng qua. Buổi tối hôm đó, vì bài báo, Tổng thống sực nhớ đến Hà thượng Nhân. Người bảo bác sĩ Dung : “Anh này cũng khá đấy, nhưng làm thơ thì phải cho đứng đắn. Nếu anh có quen với anh ta thì bảo anh ta đừng làm thơ “tào lao” như vậy. “

Tôi kể chuyện này để thấy rằng tổng thống Diệm không cố chấp. Người chịu lắng nghe cả những lời đả kích, nếu những lời đả kích nhằm mục đích tốt.

Cần kiệm

Tổng thống Diệm là người rất kiệm ước. Ăn thì chỉ ăn rau, ăn cá kho, những thức ăn mà người dân trung bình vẫn thường ăn. Thuốc lá thì hút thứ rẻ tiền. Chỗ ở của Tổng thống không có gì xa hoa lộng lẫy hết.

Hồi đó, tôi mới xin được một cái máy lớn cho Nha Vô Tuyến. Vì thế phải dựng một cái Đài phát tuyến lớn ở Quán Tre. Cố vấn Mỹ muốn giao công việc cho một Hãng thầu Mỹ.

Tôi họp các chuyên viên lại và hỏi rằng liệu chúng ta có thể làm lấy được không? Anh em kỹ sư nói rằng nếu mình làm thì phí tổn rất ít, chỉ khoảng một phần mười số tiền Hãng thầu Mỹ ước tính. Và mình làm được. Thực ra, trong anh em kỹ sư chia ra hai nhóm ý kiến đối nghịch nhau. Một nhóm cho rằng, tiền của viện trợ Mỹ thì giao cho Mỹ làm. Có hư hỏng thì họ chịu trách nhiệm. Nếu ta nhận, phương tiện của ta không đầy đủ mà sơ xuất thì phiền lắm. Ta sẽ bị qui kết là phá hoại viện trợ. Một phe thì cương quyết làm được, phải làm để cho Mỹ thấy rằng khả năng của kỹ sư Việt nam không tồi đâu. Tôi gọi riêng nhóm này do kỹ sư Nguyễn văn Lân cầm đầu (nguyên là giáo sư trường -đại học- kỹ thuật Phú Thọ) đến bàn lại..

Còn Tiếp

 Quỳnh Hương

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét