ĐÔI BƯỚM TRẮNG
Thu Tuyết
Nghĩa
trang vắng tênh. Tôi bước vội trên lối đi sỏi đá với chút gì đó bất an. Vẫn như
thường lệ, tôi đi qua các nấm mồ quen thuộc và dường như có nhiều ánh mắt đang
theo dõi bước chân tôi. Một chút lạnh sau gáy, nhưng tôi trấn an và thầm nói:
không sao, bạn của Mẹ thôi mà! Rồi tôi cảm được những ánh mắt thiện cảm với nụ
cười buồn!
Như
những quốc gia khác, mùa dịch Covid, luật cách ly cũng được áp dụng ở xứ sở yên
bình này. Người dân vô cùng dễ thương để thi hành một cách nghiêm túc. Đây là dịp
bố mẹ con cái được quây quần bên nhau và chờ đợi. Vì giặc SARS- Covid-2 mà gia
đình ấm áp, nhưng nghĩa trang thì cô đơn dưới cái lạnh nhẹ của mùa thu
Melbourne.
Nghĩ
vậy nên tôi phá lệ đi thăm Mẹ. Ánh nắng nhạt buổi chiều khiêu vũ dưới hàng cây
trên con đường nhỏ bên trong nghĩa trang. Tiệm bán hoa nơi đây cũng đóng cửa.
Không biết cụ bà bán hoa có còn không qua mùa Covid này. Thoáng một chút buồn,
tôi nhớ nụ cười hiền của bà trên khuôn mặt phúc hậu, trong vóc dáng thấp tròn của
một người Ý thuần chất. Bà luôn giữ cho tôi hoa hồng trắng hoặc cúc trắng vào
ngày cuối tuần. Có đôi lần bà vắng, người cháu trai bán thay cho tôi biết bà bị
ốm, nhưng văn hoá của người Ý có phần giống chúng ta. Một chút gì đó “Tam, Tứ đại
đồng đường”, nên cũng có những gia đình không đưa bố mẹ vào Viện Dưỡng Lão khi
họ có thể chăm sóc được.
Cũng
khá lâu, từ ngày bị cấm, bó hoa trắng tôi cắm ngày nào trên mộ Mẹ đã héo khô.
Chung quanh cũng héo khô cả hai nghĩa. Có lẽ các bác, cô chú và anh chị nơi đây
cũng hiểu và thông cảm cho người thân khi đại nạn đang diễn ra. Đó đây trên thế
giới hơn ba trăm nghìn người được đoàn tụ với ông bà cha mẹ trong nghĩa trang
hoặc bên những lọ tro tàn còn ấm mùi của lửa. Nước Úc không nhiều người tử vong
như một số nước ở Châu Âu, Châu Mỹ... nên sự đoàn tụ với cõi âm cũng ít ỏi hơn.
Vì
biết trước có lúc sẽ không vào thăm Mẹ được nên ai đó trong gia đình tôi đã cắm
trên mộ bà một bó hoa giả đủ sắc màu như những mộ phần chung quanh. Nhờ vậy mà
nghĩa trang bớt đi cái quạnh hiu u ám với mùi của cõi âm. Tôi bỏ bó hoa cũ, để
lại cái bình trống trơn, cô độc.
Lấy
một bó nhang đốt cho Mẹ. Khi nhang bốc khói thì một đôi bướm trắng, nhẹ nhàng
lượn quanh tôi. Đôi bướm đẹp lạ kỳ. Bướm mang một điều gì đó đầy bí ẩn, linh
thiêng mà tôi chưa bao giờ thấy trước đó. Ba Mẹ tôi ư? Ba tôi mất đã lâu và nằm
lại trên quê hương, xa lắm; nhưng có phải vì tình yêu với Mẹ mà ông đã vượt
trùng dương để đến đây, đoàn tụ với Bà. Có lẽ thế giới bên kia không có nhiều
phụ nữ đẹp để quyến rũ và ông đã giữ được sự thuỷ chung chừng như khá hiếm ở
cõi trần này.
Tôi
tự hỏi, không biết phía bên kia có nhà hàng với những cô gái trẻ mời rượi như
Việt Nam, có khu đèn đỏ như những nước phương Tây và những khu giải trí rất đời
trên thế gian này không. Một người bạn nói với tôi: Khi ông chết, tại phiên toà
xét xử, ông sẽ xin vị chánh án cho xuống địa ngục, nếu ông bị lên thiên đàng. Bởi
ở địa ngục vui hơn vì có nhiều bạn! Và cũng để tránh những tra tấn đau đớn vì
những lý do nào đó. Hy vọng vị chánh án này sẽ nhận lời, bởi ông cam kết sẽ
không kháng án như mẹ của Hồ Duy Hải phải cầu khẩn khắp nơi đã 12 năm trời để cứu
mạng con!
Trời
bỗng tối sầm bởi một đám mây đen. Gió mạnh hơn. Bó nhang trong tay tôi cháy lớn.
Khói và hương quyện vào nhau như đôi bướm trắng lạ lùng kia. Bỗng một con bay
đi, con còn lại đậu ngay trên một bông hoa trắng nằm sâu bên dưới. Tôi hỏi lớn:
Có phải Mẹ đấy không? Mẹ ơi! Bướm trăng vẫy vẫy đôi cánh như đáp lời rồi vẫn đậu
yên nơi ấy.
Theo
văn hoá Phương đông, đặc biệt là Trung Quốc, bươm bướm được xem là biểu tượng của
linh hồn người đã khuất, nó kết nối giữa sự sống và cái chết. Vì vậy, ngày còn
bé, tôi thường nghe mẹ kể những câu chuyện linh thiêng về loài bướm, trong đó
có một chuyện tình thật cảm động.
Xưa
lắm, trong một gia đình nghèo, người chồng đột ngột qua đời để lại vợ với đàn
con thơ bốn đứa. Người vợ tần tảo sớm hôm nhưng vẫn không đủ để nuôi con. Một
hôm, đêm về người vợ phát hiện trên bàn thờ có một con bướm trắng. Bà đuổi đi,
nhưng bướm vẫn quanh quẩn bên căn lều nhỏ. Từ đó, hàng đêm bướm cứ về và đậu
bên cửa sổ nơi mẹ con nằm. Dần dà thành thói quen. Bà cảm được có cái gì đó rất
yên trong tâm hồn.
Một
hôm, bướm không về nữa, bà bất an và mất ngủ, tinh thần suy sụp rồi ngã bệnh.
Đàn con dại chỉ biết nhìn mẹ, ngơ ngác. Chúng đói ăn, nheo nhóc. Trong lúc tận
cùng, bướm xuất hiện. Người đàn bà đáng thương kia dần phục hồi sức khoẻ. Và
như một điều kỳ diệu, người mẹ đã làm được bao điều phi thường để đưa đàn con đến
bến bờ hạnh phúc. Con bướm ấy chính là người chồng quá cố, đã thổi vào người vợ
một sức mạnh vô hình để gián tiếp nuôi dạy đàn con.
Bầu
trời sáng lại. Ánh nắng nhạt đã bóc đi cái lớp u ám của nghĩa trang khi bị đám
mây che phủ. Con bướm vẫn đậu yên trên bông hoa trắng như một tín hiệu cho tôi
biết rằng: Mẹ đây! Mẹ về với con đây!
Tôi
nhìn bướm mắt nhoè lệ. Cắm ba cây nhang vào chiếc lư hương trên mộ, tôi lâm râm
khấn nguyện cho Mẹ sớm về cõi vĩnh hằng; cho gia đình, người thân những điều
lành và cho nhân loại sớm qua mùa Covid. Mặc dầu tôi biết điều này không nằm
trong giới hạn của Mẹ, nhưng tôi vẫn cầu xin. Nhìn bướm, tôi nói lời tạm biệt rồi
cầm bó nhang cháy dở còn lại cắm trên những mộ phần chung quanh đang cô đơn
trong mùa dịch bệnh. Tôi đạp nắng chiều bước trên con đường sỏi nhỏ giữa hai
hàng mộ. Chiếc bóng trải dài phía sau như níu bước chân tôi vì Mẹ đang còn đó,
một con bướm trắng trên cành hoa tinh khiết.
Vừa
ngồi vào xe, một người cảnh sát bước đến. Tôi kéo cửa kiếng xuống nhìn. Ông ta
nói, “Cô đã vi phạm luật vì đang thời kỳ cách ly”. Tôi rươm rướm nước mắt trả lời:
“Xin lỗi, tôi sai. Vì nhớ Mẹ nên tôi đã phá lệ". Ông cười hiền như cảm
thông và cảnh báo: “Nếu vi phạm lần nữa sẽ nhận lấy vé phạt”. Tôi cám ơn và lái
xe ra khỏi con đường nhỏ đầy hoa nắng. Lòng tôi vương vấn nỗi buồn: nhớ Mẹ!
Thu
Tuyết - Melbourne, 17/5/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét