GIỚI THIỆU
Kính thưa quý Thầy, Cô, quý Đồng Môn và Thân Hữu
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý vị tiểu phẩm NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG HOA ĐỐI VỚI TINH THẦN TỰ CHỦ CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM. Tác giả: Thầy Dương Anh Sơn, cựu giáo sư việt văn trung học Nguyễn Huệ Tuy Hòa, Phú Yên. Nhận định sâu sắc, kiến thức rộng, biên khảo công phu. Đây là một tài liệu văn học sử rất hay, rất giá trị.
"Chào Ban Biên Tập,
Bữa nay, tôi xin gửi đến BBT những trang viết, đúng hơn là một tiểu luận về chính trị, lịch sử, văn hóa của VN để tìm hiểu xem nước ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như thế nào trong suốt hơn ngàn năm nay. Đồng thời đặt ra những suy nghĩ về hiểm họa trước mắt của một Trung Quốc Cộng Sản giàu lên nhờ sự "tiếp tay" của mấy đời Tổng thống Mỹ. Một khi họ giàu có rồi, việc sắm sanh vũ khí, dùng tiền bạc, mưu mô thâm hiểm... để đe dọa thế giới. Việc "trỗi dậy" của họ không phải là việc để "chung tay xây dựng hòa bình" mà là hiểm họa thống trị thế giới trong một tương lai không xa...
Chắc chắn cái nhìn của tôi chủ quan và còn nhiều thiếu sót. Bài
viết chỉ nhằm thắp lên những đóm lửa nhỏ bé để cùng những đóm lửa khác vạch
trần tham vọng bành trướng của phương Bắc. Bài viết chỉ nhắm góp thêm một lời
cảnh báo về sự sống còn của đất nước và dân tộc chúng ta trước sự lớn mạnh hung
hãn, tàn bạo, dối trá của kẻ thù phương Bắc này. TQ khộng những đe dọa
"láng giềng" mà còn là mối hiểm họa cho nhân loại. Dù làm gì, ở đâu
tôi vẫn nghĩ những con dân Việt Nam thiết tha với vận nước sẽ cùng nhau trong
phương tiện của mình cố gắng đối phó vời cơn bão hung dữ đang càng ngày càng
mạnh lên. Cả thế giới còn lại nếu không có phương
cách đối phó hiệu quả, không chóng thì chày, gã khổng lồ bánh trướng này sẽ
nuốt chửng và chi phối nhân loại. Giờ đây ai cũng thấy rõ hơn chính sách đồng
hóa, diệt chủng vô cùng tàn độc của họ đối với các dân tộc Nội Mông, Tây Tạng
và Tân Cương. Cũng chính sách đồng hóa đó trong hơn ngàn năm đối phó sự xâm
lăng của phương Bắc, dân tộc của chúng ta vẫn không bị đồng hóa. Tuy nhiên
những ảnh hưởng khị bị lệ thuộc về văn hóa, văn chương, chữ viết v.v... do
phương Bắc đem đến là điều không thể tránh khỏi. Từ đó cần thiết phải gạn lọc
để giữ vững truyền thống đích thực của dân tộc, gạt sang bên những yếu tố ngoại
lai âm thầm mang theo chính sách đồng hóa cả ngàn năm nay.... Xin chào
BBT. DAS.VN""
Trân trọng
NHHN
DẪN NHẬP
Trong "Lời tựa" cuốn Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim, ông đã có một nhận định rất sâu sắc cho việc tìm hiểu lịch sử: "Sử sách không những là chỉ ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc." (tr. 7, sđd). Do đó, việc tìm hiểu về những ảnh hưởng của nước Trung Hoa đã tác động đến tinh thần tự chủ của dân tộc Việt trong hơn một ngàn năm bị xâm lược qua các giai đoạn lịch sử sau chỉ là một cố gắng để nêu ra các ảnh hưởng tiêu cực do Trung Hoa gây ra! Đồng thời, qua đó để chúng ta thấy rõ hơn những tác động từ Trung Hoa xưa và nay đối với những lĩnh vực chính trị, văn học, văn hóa giáo dục, kinh tế, tôn giáo, phong tục tập quán v.v... của nước ta. Mặt khác, tìm hiểu xem những ảnh hưởng ấy để thấy rõ những trở lực đã góp một phần không nhỏ cùng với các thế lực mù quáng độc đoán khác làm kềm hãm sự phát triển của đất nước như thế nào. Cái họa từ phương Bắc mà đất nước chúng ta đã và đang phải đối phó là một bài toán rất khó khăn nhưng chắc chắn không phải là bế tắc khi đất nước và tổ tiên chúng ta đã có một bề dày lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc để gìn giữ giống nòi và bờ cõi. Lòng yêu nước là một sức mạnh quan trọng để giữ nước của cha ông ta từ xưa đến nay. Một khi lòng yêu nước bị kềm hãm và làm cho tiêu mòn vì sự hèn hạ hay nhu nhược của kẻ cầm quyền sẽ là một yếu tố quan trọng dẫn đến cái họa mất nước mà cha ông ta đã ra sức bồi đắp và gìn giữ hơn hai nghìn năm nay. Khi một đất nước, một dân tộc không giữ gìn được tinh thần tự chủ, không xây dựng được một chính thể thực sự tốt đẹp trên tinh thần nhân bản và dân tộc, không có đường hướng và trách nhiệm rõ ràng để bảo vệ tổ quốc cũng như tương lai tốt đẹp của dân tộc tất sẽ dẫn đến con đường suy vong, lệ thuộc bọn bành trướng như những thời kỳ xa xưa của một ngàn năm bị đô hộ trong một cách thế khác! Chưa bao giờ việc nêu cao tinh thần tự chủ, tránh xa những ảnh hưởng tiêu cực các mặt do yếu tố Trung Hoa tác động lại cấp thiết trong thời đại hiện nay đối với nước ta! Việc điểm qua các giai đoạn lịch sử bên dưới là để chúng ta có cái nhìn tổng thể về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta trước sự xâm lấn và ảnh hưởng nhiều mặt cả tốt lẫn xấu của phương Bắc làm cản trở tinh thần tự chủ của dân tộc.
Theo truyền thuyết vẫn được nhiều nhà nghiên cứu sử học đề cập và chúng ta từng được học hỏi qua trường lớp, lịch sử của đất nước Việt Nam chúng ta khởi thủy qua huyền sử đã kể các câu chuyện về vua Đế Minh 帝 明 cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương nam đến vùng Ngũ Lĩnh (tức tỉnh Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay) gặp một nàng tiên nữ trên núi sánh duyên vợ chồng sinh ra một người con tên là Lộc Tục 祿續. Khi Đế Minh làm vua đã lâu, nhường ngôi cho con trai trưởng là Đế Ly 帝釐 (hay còn gọi là Đế Nghi) làm vua phương bắc và con thứ Lộc Tục được phong làm vua phương nam tức là Kinh Dương vương 涇 陽 王 đặt tên nước là Xích Quỷ 赤 鬼 được các nhà viết sử xưa nay cho đó là nguồn gốc mở đầu cho thời đại Hồng Bàng 鴻龐 về sau( khoảng 2879-258 TCN). Vùng đất đầu tiên của người Việt xưa giáp với hồ Động Đình (Hồ Nam, T. H) về phía bắc, châu thổ sông Hồng ở phía nam, vùng Ba Thục (tứ Xuyên, T. H ) ở phía tây và biển Đông ở phía đông. Kinh Dương vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm 崇纜 nối ngôi vua tức là Lạc Long quân 貉龍 君. Lạc Long quân sai con sang phía nam trấn nhậm và làm vua một vùng châu thổ sông Hồng trải dài từ xứ Bạch Hạc, [ Vĩnh Yên xuống đến vùng đất Việt Thường nay là Quảng Bình, Quảng trị (xem Trần Trọng Kim, VNSL, sđd, tr. 23, 24, ĐVSKTT, sđd, tr. 64, 65, 66)] xưng là Hùng vương, đặt tên nước là Văn Lang. Như thế theo huyền sử, những người thực sự và chính danh cai trị nước ta thuộc dòng dõi của các vua Hùng là con cháu của Lạc Long Quân, là cháu nội của Kinh Dương vương (anh em cùng cha với Đế Nghi làm vua phương bắc)! Về mặt huyền sử, phương bắc và phương nam ít nhiều có chung nguồn gốc với các bộ tộc con cháu vua Thần Nông sống trên vùng đất Trung Hoa xưa. Đây chỉ là huyền sử nghĩa là những câu chuyện lịch sử còn nhiều nghi vấn và thiếu sự chính xác vẫn đang được các nhà nghiên cứu lịch sử tìm kiếm để đưa ra ánh sáng với những luận chứng khoa học lịch sử! Khoảng cách từ khi lập nước Văn Lang cộng với cả ngàn năm Bắc thuộc cho đến khi cuốn Đại Việt Sử Ký 大越史記 của Lê Văn Hưu phụng mệnh vua Trần Thái tông (viết vào thế kỷ 13 SCN) đã qua đi xấp xỉ 1500 năm. Kế tiếp Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của nhóm Ngô Sĩ Liên (viết vào thời Lê Thánh Tôn 1460-1497) dựa trên ĐVSK của Lê Văn Hưu và tập Đại Việt Sử Ký Tục Biên大越史記續編 của Phan Phu Tiên nên chắc chắn rằng nguồn sử liệu không được chính xác vì chỉ căn cứ trên huyền sử rất mịt mờ! Những tìm kiếm khác như của nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, của Gs Kim Định và nhiều học giả khác về sau dựa trên các tài liệu của Trung Hoa và Tây phương ít nhiều đã soi sáng được những vấn đề của huyền sử đã đề cập dựa trên văn học dân gian, hay trên các di tích còn ghi lại một số dấu vết mờ nhạt về thuở bình minh của dân tộc. Chính vì thế nên Vũ Quỳnh 武瓊 (1453-1516, tác giả Đại Việt Thông Giám 大越 通 鑑) khi đề tựa cho bản hiệu đính của Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪 (LNCQ) do Trần Thế Pháp biên soạn đã viết: "Nhưng nước Việt ta, tự cổ vốn là đất hoang, cho nên những chuyện ghi chép được rất sơ lược. Nước ta khởi đầu từ Hùng vương đã khá văn minh. Qua Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay đã có quy mô, cho nên việc ghi chép sử được tường tận hơn" (sđd, tr. 30).
2. Vùng lãnh thổ và sự xâm lấn của Hoa tộc trong thời kỳ lập nước Văn Lang.
Bản đồ dưới đây phác thảo nước Nam Việt thời
Triệu Đà (207-137 TCN) với phía Tây giáp Dạ Lang và Câu Đinh, phía Đông giáp
Mân Việt, phía Nam giáp với dãy Hoành Sơn, phía Bắc giáp vùng Trường Sa nhà
Hán. Toàn thể vùng Bách Việt xưa đã vùng Quế Lâm và Nam Hải đã rơi vào tay các
triều đại Hoa tộc. (theo bản đồ của Wikipedia). Phỏng ước lãnh thổ hai nước Văn Lang (màu
vàng) của các vua Hùng và xứ Nam Cương (màu xanh lục) của Thục Phán, sau này
hợp nhất thành nước Âu Lạc vào khoảng thế kỷ 3 TCN.
Như thế, những nghiên cứu của nhiều học giả đã cho thấy về mặt huyền sử, phương bắc và phương nam có một mối liên hệ mật thiết về nguồn gốc và có nền văn hóa qua lại với nhau từ xa xưa nhưng khi nước Xích Quỷ, tiền thân của nước Văn lang ra đời do tránh sự xâm lấn của Hoa tộc, đã tụ họp nhiều dòng tộc Viêm Việt gọi chung là Bách Việt chiếm một vùng đất rộng lớn ở vùng Hồ Quảng (tức Quảng Đông, Quảng Tây và Hồ Nam của Trung Hoa bây giờ). Theo Gs Kim Định (1915-1997), nước Xích Quỷ tiền thân của nước Văn Lang của chúng ta gồm ba hệ:
"Hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Quí Châu, Vân Nam, Miến Điện. Hệ Miêu Việt ở giữa các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt, Trung Việt. Thời đại Phong Châu: lập ra Văn Lang tiếp đến là Hán thuộc "(xem Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, tr. 63, tr. 78, sđd bên dưới). Hiện nay ở các vùng này nằm bên Trung Hoa nhất là vùng Quảng Đông, Quảng Tây… vẫn còn có một số người của bộ tộc gốc Việt vẫn giữ được những sinh hoạt tựa như người Việt chúng ta ngày nay (xem trang mạng tham khảo wtk 7). Từ khi các bộ tộc Bách Việt với các vùng đất sinh sống dần dà bị người Hán xâm chiếm và tiến hành đồng hóa như cách thức đã làm với các tộc người Hoa của phương bắc không phải là người gốc Hán! Một vài bộ tộc như Âu Việt, Lạc Việt, Miêu Việt dù bị tiêu mòn do sự đàn áp và đồng hóa của người Hán phương bắc đã tìm cách xuống định cư vùng châu thổ sông Hồng ở phía nam và lập ra nước Văn Lang文郎 với 18 đời vua Hùng vương 雄雄 đóng đô ở Phong Châu 峰州 (huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên, VN). Những sách sử của người Hán còn lại cũng đã đề cập đến tộc Việt được biết đến qua câu chuyện của Việt Vương Câu Tiễn 越王勾踐 (496 TCN - 465 TCN). Điều này có thể làm rõ phần nào sự có mặt của bộ tộc Việt giữa nhiều bộ tộc khác xa xưa cùng sinh sống trên vùng đất Trung Hoa cổ đã dần dần bị các tộc người Hoa nhất là tộc Hán xâm lấn ! Một bộ phận của tộc Bách Việt còn giữ được tinh thần độc lập, tự chủ phải xa lánh về phía nam để tránh bị cưỡng bách đồng hóa mà chúng ta sẽ mở rộng trong những phần sau. Bài học trước mắt trong thế kỷ này mà chúng ta đều thấy rõ ràng khi Hoa tộc đã "nhân danh nước Trung Hoa vĩ đại" tìm mọi cách vô cùng khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo để diệt chủng hoặc đồng hóa người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ của Tân Cương ,Nội Mông hiện thời chắc chắn hơn hẳn cách thức đồng hóa của tiền nhân nước họ ở điểm tàn độc ,phi nhân tính không kém gì Fasciste Đức thời thế chiến thứ 2
Trong ba thời kỳ Bắc thuộc mà chúng ta đã biết đến, sử sách đã cho thấy sự tàn ác dã man của đoàn quân xâm lược phương bắc từ giặc Ân, giặc Tần và nhiều triều đại nhà Hán sau này đối với dân tộc Việt dẫn đến sự quật khởi với nhiều cuộc khởi nghĩa đã lần lượt nổ ra. Cuộc khởi nghĩa khởi đầu của Hai Bà Trưng thời Hán Quang Vũ (40-43 STN) là nguồn cảm hứng cho những cuộc khởi nghĩa sau này như của Triệu Quốc Đạt 趙 國逹 và Triệu Ẩu (bà mẹ họ Triệu)逹 嫗 (248), của Lý Bôn 李賁 (544-548)kế thừa là Triệu Quang Phục. Rồi tiếp nữa là các cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan 梅叔鸞, của Phùng Hưng 馮 興 (được dân chúng yêu mến kính trọng tôn là Bố Cái Đại Vương 布蓋大王), của Dương Diên Nghệ 楊 延 藝 và Ngô Quyền 吳 權 sau này. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn năm 544, kế tục là của tùy tướng Triệu Quang Phục đã thành công đem lại một giai đoạn ngắn ngủi cho đất Việt được độc lập với với tên nước là Vạn Xuân萬春 (544-602) rồi lại bị nhà Tùy, kế tục là nhà Đường phương bắc xâm chiếm đặt tên là An Nam Đô Hộ Phủ tương đương quận huyện bên nhà Đường, rồi chia nước ta thành 12 châu [từ Giao Châu phía bắc đến Hoan Châu, Diễn Châu (Nghệ An) ở phía nam]. Có thể xem cuộc khởi binh của Ngô Quyền (931-938) khi đánh tan được quân Nam Hán đã mở ra một thời kỳ tự chủ lâu dài cho dân tộc Việt.
Đời nhà Đường với nhiều thành tựu đáng kể với một trào lưu mà chúng ta hâm mộ gọi là Thơ Đường với nhiều nhà thơ tài hoa như Lý Bạch, Thôi Hiệu, Vương Duy, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục, Vương Xương Linh, Tống Chi Vấn... v.v... mà thơ văn của họ mang nhiều sắc thái văn học với đậm đà chất nhân bản được nhiều thế hệ xưa nay hâm mộ. Nhưng Đường Cao tổ (621), rồi Cao tông (679), lại là những kẻ đã cho thiết lập chế độ đô hộ thuộc loại tàn bạo nhất trong thời Bắc thuộc. Chính vì vậy, học giả Trần Trọng Kim đã phê phán :" Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả!" (sđd, tr. 66). Tên gọi "An Nam đô hộ phủ" không mấy tốt đẹp cũng ra đời từ thời thuộc Đường! Đó là mơ ước của giặc xâm lăng phương Bắc muốn phương Nam luôn yên ổn, không nổi dậy khởi nghĩa đánh lại bọn xâm lăng! Một bên là những cái hay ho của nền văn học nhân bản và một bên là chính quyền gây ra tội ác khi xâm lược nước ta. Sự lựa chọn cũng phải dứt khoát, rõ ràng khi phân tích về sau. Chúng ta có thể điểm qua một số nét chính của ba lần Bắc thuộc:
4. 21 Nhà Đông Hán năm 43 sai Mã Viện là một danh tướng với đội quân đông đảo, tinh nhuệ đối phó với hai chị em bà Trưng với quân lính ô hợp, chưa từng chiến chinh nên chiến thắng của Mã Viện rất dễ dàng và không đáng tự hào khiến Hai Bà phải tự vẫn ở sông Hát (chỗ sông Đáy chảy ra sông Hồng). Mã Viện hay Phục Ba tướng quân là người tái lập chế độ cai tri của nhà Đông Hán rất khắc nghiệt nhằm đàn áp, đe dọa tinh thần trỗi dậy của dân ta từ cảm hứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Chuyện cây trụ đồng của Mã Viện cho dựng nhiều nơi ở Giao Chỉ hay bắt đem nộp tất cả các loại trống đồng đem nấu chảy là những hình ảnh cho thấy con người của y đã đối phó với dân ta như thế nào. Mã Viện là danh tướng của Hoa tộc nhưng đối với người Việt chúng ta, y là một kẻ tàn bạo, là công cụ xâm lược cho Đông Hán và gây nhiều tang thương cho dân Việt thời Hai Bà Trưng. Chính vì vậy, khi nói đến Mã Viện, nhà thơ Nguyễn Du sau này khi đi sứ qua miếu thờ của Phục Ba tướng quân đã châm biếm:
… 銅 柱 僅 能 欺 越 女
珠 車 畢 竟 累 家 兒
姓 名 合 上 雲 臺 畫
猶 向 南 中 索 歲 時
(夾 城 馬 伏 波 廟 - 北 行雜 錄 )
Tiếp đến, những quan thái thú qua trấn nhậm
đất "Giao chỉ " theo sử sách thường rất tàn ác và tham lam như sử gia
Lê Văn Hưu đã viết: "... những người làm thứ sử thấy đất các châu có các
thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, hương xạ, gỗ tốt… phần nhiều không liêm khiết,
vơ vét của cải cho đầy rồi lại xin đổi đi… thuế má nặng quá, trăm họ không ai là
không khốn khổ..." (ĐVSKTT, sđd tr. 118). Thêm vào đó, triều đình bên
Trung Hoa của bọn họ lại rất bạc đãi dân vùng bị đô hộ nên bọn quan lại đi trấn
nhậm mặc sức đầy đọa dân ta và ra sức vơ vét của cải. Khi nhà Đông Hán suy yếu,
Sĩ Nhiếp (187-226) đang làm thái thú Giao Chỉ, bấy giờ xin vua Hán cải tên
thành Giao Châu, đã cai trị nước ta có khuôn phép và mở mang việc học theo lối
nhà Hán ít nhiều cũng đem lại sự tốt đẹp và văn minh cho vùng Giao Châu. Trước
đó, Lý Tiến (khoảng 168-189) người Giao Chỉ nhờ có vốn liếng Hán học cũng được
bổ làm thứ sử ở Giao Chỉ. Điều đó cho thấy chữ Hán đã được du nhập trước đời Sĩ
Nhiếp! Khi nhà Đông Hán mất, Sĩ Nhiếp vẫn tiếp tục triều cống triều đại mới có
ảnh hưởng việc cai trị ở phương Nam là nhà Ngô của Tôn Quyền. Nhiếp mất, con là
Sĩ Huy tự xưng thái thú nhưng đã bị thái thú mới được Tôn Quyền cử qua hợp cùng
thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại bắt giữ và bị chết chém (226). Lữ Đại được phong
làm Giao Châu mục 交洲牧 (chăn dắt đất Giao Châu- chữ "mục"
có hai nghĩa đáng lưu ý: chăn dắt súc vật và thống trị).
4. 22 Trước sự tàn ác của quan lại nhà Ngô, năm 248, Triệu Quốc
Đạt và em là Nhụy Kiều tướng quân Triệu Ẩu đã tụ binh đánh phá quận Cửu Chân
nhưng vì quân ít nên không đương cự được quân của thứ sử Giao Châu là Lục Dận,
phải chạy đến xã Bồ Điền tự vẫn lúc 23 tuổi.
4. 23 Năm 280, nhà Ngô mất vào tay nhà Tấn. Giao Châu lại bị lệ thuộc
nhà Tấn. Giai đoạn này vùng Giao Châu lại bị người Chiêm Thành của nước Lâm Ấp
phía nam thường sang cướp phá quận Nhật Nam và Cửu Chân gây nhiều đau thương
cho người Việt.
4. 24 Khi nhà Đông Tấn mất (420) thời Nam Bắc triều, Giao Châu bị lệ
thuộc vào Nam triều với nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương thay nhau cai trị. Đất
Trung Hoa loạn lạc nên nhiều người qua Giao Chỉ lánh nạn lâu năm cũng hòa nhập
với người bản xứ. Các quan lại người Hoa tranh giành nhau để dành thế độc lập
hùng cứ một phương. Thời nhà Lương, quan thứ sử Tiêu Tư rất tàn ác khiến lòng
dân nam oán hận lại thêm phải lo sợ bị quân Lâm Ấp cướp phá. Lý Bôn 李賁 nhân cơ hội ấy đã nổi
dậy (541) đuổi được Tiêu Tư về nước và chiếm được thành Long Biên lên ngôi vua
xưng là Nam Việt Đế 南越 帝 hay còn gọi là Lý Nam Đế 李南帝, đặt tên nước là Vạn
Xuân萬 春, đóng đô ở Long Biên龍編. Lý Bôn tuy là người
gốc gác Hoa tộc ở đời Tây Hán qua Giao Châu lánh nạn sinh sống nơi đây đã bảy
đời nên xem như người bản địa đứng lên dẹp chế độ cai trị nhà Lương tàn bạo
được sự ủng hộ của các tộc trưởng và dân Việt. Khi nhà Lương cho Dương Phiêu
sang làm thứ sử Giao Châu (545) để bình định vùng này. Lý Nam Đế đương cự với
quân nhà Lương không lại phải rút về động Khuất Liêu(vùng Hưng Hóa) rồi giao
binh quyền lại cho Triệu Quang Phục 趙光復 là một tướng giỏi nhiều mưu kế. Triệu Quang
Phục đã dùng chiến thuật du kích ở đầm Dạ Trạch để dụ quân địch đến đánh và làm
tiêu hao quân nhà Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy nhằm cướp lương thực và làm cho
chúng mỏi mệt. Nhân khi bên Lương có loạn Hầu Cảnh phải rút tướng Trần Bá Tiên
về, Triệu Quang Phục đã đánh đuổi được quân Lương do tì tướng của Bá Tiên là
Dương Sàn chỉ huy và lấy lại thành Long Biên. Trước đó, Lý Nam Đế bị bệnh mất ở
vùng Khuất Liêu (548) nên Triệu Quang Phục thế ngôi vua xưng là Triệu Việt
Vương.
4. 31 Nhà Tùy thống nhất Trung Hoa vỏn vẹn được 26 năm (581-617) nhưng
khi nghe tin quân Lâm Ấp thường sang quấy nhiễu Giao Châu và lại nghe Lâm Ấp là
nước giàu có nhiều của cải nên vua Tùy lại sai Lưu Phương tiến đánh. Phương
dùng kế đánh đuổi được quân Lâm Ấp nhưng cũng phải rút về, nửa đường bị bệnh
mất.
4. 32 Năm 618, Đường Cao tổ Lý Uyên dẹp được nhà Tùy, sai Khâu Hòa
sang cai trị Giao Châu, đổi tên là An Nam Đô Hộ Phủ 安南都護府 với mười hai châu
trải dài từ Lục Châu (Quảng Yên, Lạng sơn) đến Diễn Châu (Nghệ An), sau thêm
một châu nữa là Man Châu thuộc các bộ tộc Mường vùng tây bắc. Cũng như các thời
cai trị trước của các vương triều Hoa tộc, quan lại nhà Đường cũng gây ra biết
bao điều tàn ác khiến dân Nam phải khổ sở. Năm 722, Mai Thúc Loan 梅叔鸞 nổi lên chiếm vùng
Hoan Châu, xưng đế mà dân gian thường gọi là Mai Hắc Đế do nước da mặt ngăm đen
của ông. Ông đã giao thiệp với Lâm Ấp và Chân Lạp để liên kết chống quân nhà
Đường. Đường Huyền tông sai quan nội thị Dương Tư Húc đem quân hợp với quân sở
tại đánh Mai Thúc Loan. Quân nam thế yếu nên thua chạy rồi sau đó nhà vua họ
Mai bị bệnh mất trên đường bôn tẩu.
Năm 791, đời Đường Đại tông, quan đô hộ Cao
Chính Bình áp đặt sưu cao thuế nặng dân chúng rất khổ cực, lòng dân oán hờn,
Phùng Hưng 馮 興 người quận Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây) nổi
lên đem quân đánh phá phủ đường của quan đô hộ khiến Cao Chính Bình lo sợ mà
chết. Họ Phùng chiếm giữ phủ đường được vài tháng bị bệnh mất. Con là Phùng Huy
lên thay nhưng xin hàng vì không chống nổi quân nhà Đường do Triệu Xương qua
làm đô hộ thống lĩnh. Dân chúng cảm mến Phùng Hưng lập đền tôn là Bố Cái Đại
Vương布蓋大王 để tỏ lòng tôn kính.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ năm 713
cho đến năm 866, dân Nam không những chịu khổ vì ách cai trị của quan lại nhà
Đường lại thường xuyên bị quân quân Nam Chiếu ở phía tây bắc và quân Lâm Ấp
phía nam quấy phá liên tục gây nhiều chết chóc thiệt hại cho dân ta. Nhân khi
các quan cai trị nhà Đường lên vùng người Mạn ở phía tây mua sắm sản vật với
cung cách mua ép khiến các tộc người Man (sát lãnh thổ Lào) sinh lòng oán hận
dẫn đường cho quân Nam Chiếu gồm các bộ tộc đóng vùng Vân Nam, phía tây bắc
Giao Châu tiến đánh phá nhiều phủ thành gây nhiều thiệt hại lớn cho người Giao
châu. Sách ĐVSKTT của Lê Văn Hưu đã ghi nhận: "Nam Chiếu hai lần đánh
Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần mười lăm vạn người" (sđd tr. 179) trong
hơn mấy năm trời ! Còn ở phía nam, quân Lâm Ấp ( sau đổi tên là Chiêm Thành
)nhờ ở xa hơn nước Trung Hoa nên sớm lập nước, xây thành vững vàng thường xua
quân quấy phá và chiếm giữ Hoan Châu và Ái Châu, gây nhiều thiệt hại về người
về của rất lớn không kém những gì quân Nam Chiếu gây ra cho người Giao châu !
Về sau, nhà Đường cử Cao Biền là tướng giỏi sang Giao Châu mới dẹp yên hai nhóm
quân giặc này.
4. 33 Sang đời Ngũ Quí (hay còn gọi là Ngũ Đại) bên Trung Hoa
với năm thế lực tranh giành nhau là Hậu Hán, Hậu Lương, Hậu Chu, Hậu Đường và
Hậu Tấn. Nhà Đường đã suy yếu nên chấp nhận cho Khúc Thừa Dụ 曲承裕 người bản xứ, quê ở
Hải Dương làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Khi nhà Đường chấm dứt,
nhà Hậu Lương lại có ý dòm ngó đất Giao Châu. Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được
hơn một năm thì mất, con là Khúc Hạo lên thay. Khi Hạo mất (917), con là Khúc
Thừa Mỹ nhận chức Tiết độ sứ từ nhà Hậu Lương thay vì của nhà Hậu Hán tức Nam
Hán cũng đang dòm ngó Giao Châu! Năm 923, Nam Hán sai tướng Lý Khắc Chính đem
quân đánh Giao Châu, bắt được Khúc Thừa Mỹ. Nam Hán cử Lý Tiến sang làm thứ sử
hợp cùng Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
Năm 931, Dương Diên Nghệ 揚延藝 trước đây là tướng
của Khúc Hạo đã mộ quân đứng lên đánh đuổi được Lý Khắc Chính và Lý Tiến lên
làm Tiết độ sứ được sáu năm thì bị Kiều Công Tiện là viên tướng thuộc quyền làm
phản giết Nghệ cướp quyền nhưng lại bị thuộc tướng khác của Dương Diên Nghệ là
Ngô Quyền, quê ở Đường Lâm đem quân từ Ái Châu về đánh khiến y phải cầu viện
quân Nam Hán. Vua Nam Hán sai con là thái tử Hoằng Thao đưa quân đi trước còn
mình tiếp ứng phía sau. Năm 938, Ngô Quyền đã giết được tên phản bội Kiều Công
Tiện và đã chuẩn bị đối phó với quân của Hoằng Tháo trên cửa sông Bạch Đằng.
Ngô Quyền cho dùng thuyền nhẹ dụ quân Nam Hán đuổi theo kịp lúc thủy triều hạ
xuống nhô cọc bịt sắt đã chôn từ trước khiến tàu thuyền của quân Nam Hán bị đâm
thủng gây rối loạn. Thừa cơ, quân Ngô Quyền quay lại phá tan được thủy quân của
giặc, bắt sống Hoằng Thao và giết đi. Vua Nam Hán nghe tin không dám tiến đánh
và rút về Phiên Ngung.
Có thể xem chiến thắng trên sông Bạch Đằng của
Ngô Quyền đã chấm dứt được hơn một ngàn năm Bắc thuộc và mở ra một thời kỳ tự
chủ mới cho dân tộc.
*****
Trải qua ba lần Bắc thuộc (207 TCN - 939 SCN), người dân Việt đã chịu sự đô hộ tàn bạo của phương Bắc hơn 1000 năm trời! Suốt chặng đường sau thời nước Văn Lang bị tiêu diệt, các cuộc tranh giành quyền lực, lãnh thổ của những nhóm Hán tộc mạnh yếu của phương Bắc với nhau xảy ra trên vùng đất Giao Châu của người Việt chắc chắn cũng đã gây ra bao nhiêu tang thương cho người dân Việt bị cai trị. Các tộc lân bang như Nam Chiếu, Lâm Ấp, Chân Lạp nhân khi quân Tàu đô hộ yếu thế cũng xâm lấn và gây nhiều thiệt hại cho dân ta. Hơn một một ngàn năm bị phương bắc cai trị đã làm cho các tộc Việt của Văn Lang không thể nào thoát khỏi những ảnh hưởng nhất định về các mặt chính trị, văn học, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, phong tục tập quán... v.v... của người Trung Hoa. Chính vì vậy sử gia Trần Trọng Kim đã nhận định: "Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một ngàn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách sâu xa..." (Việt Nam Sử Lược, Lời tựa, tr. 9, sđd, chữ bôi đen của người viết). Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực do bị "nhiễm" đó trong các phần sau.
Trong những lần đất nước ta gặp nguy nan sau thời tự chủ của Ngô Quyền, nhờ có vua giỏi tướng tài như thời vua Lê Đại Hành phá Tống bình Chiêm (981), thời Lý Nhân tông, nhà vua và quần thần đã thấy trước âm mưu muốn chiếm nước ta nên đã cử danh tướng Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đem quân sang đánh châu Khâm, châu Liêm của nhà Tống mà thuở xa xưa là đất đai của tộc Việt (1075).
Rồi trận đánh tan quân Tống ở sông Như Nguyệt (1076) lại tiến đánh hai châu Khâm, châu Liêm bên Tống lần nữa (1077) đã cho thấy các vua quan triều đình nhà Lý rất uy dũng luôn đề cao tinh thần tự chủ trước những mưu toan thôn tính của phương bắc! Tiếp đến vào thế kỷ 13, nhà Trần với ba lần giặc Nguyên Mông xâm lấn nước ta(1258, 1285, 1287) đã sớm bị vương triều nhà Trần đánh đuổi khỏi bờ cõi! Đến thời Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần lên làm vua đã tạo dịp cho quân Minh sang đánh và đô hộ nước ta (1414-1427). Đây là một thời kỳ đen tối của dân tộc khi bọn Trương Phụ, Hoàng Phúc, Mộc Thạnh, Trần Hiệp là các viên tướng nhà Minh được giao phó thiết lập guồng máy đô hộ bằng những biện pháp đồng hóa khắc nghiệt đối với dân ta. Chẳng hạn"... nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; đàn bà con gái thì mặc áo ngắn quần dài, hóa theo phong tục phương bắc "(ĐVSKTT, sđd, tr 794). Việc vơ vét sách vở quý giá, bắt các nho sĩ hay những người giỏi nghề đem sang Tàu hay "khai thác các xưởng mỏ vàng bạc, đem phu đãi lấy, bắt voi trắng, mò trân châu, đánh thuế nặng, bóc lột nhiều..." (ĐVSKTT, sđd tr. 795) đều là cung cách của bọn đô hộ phương bắc tiến hành như những thời kỳ Bắc thuộc nhưng tàn tệ hơn trước!
Chính sách đồng hóa và thâu tóm nhân tài, vét sạch của cải hay di sản văn hóa... v.v... được quân Minh thi hành mạnh mẽ. Đặc biệt, việc quân Minh lấy đi rất lớn tài liệu sách vở lưu trữ của nhiều triều đại nước Việt đã làm thiệt hại rất lớn di sản văn học, nghệ thuật, văn hóa... v.v... vốn không đồ sộ của nước ta!
Thời nhà Thanh sang xâm lược cũng như bao đời các triều Hán tộc trước đây, cứ nghĩ đơn giản đất đai tiên tổ của chúng ta mà bọn họ đã từng đánh chiếm trong các thời Bắc thuộc xưa kia là "lãnh thổ" của họ. Chính vì thế, tổng đốc Lưỡng Quảng của triều Thanh khi dâng biểu lên vua Càn Long đã viết với đầu óc của những kẻ muốn đi chiếm đoạt nước ta: "... Vả lại nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê và lấy lại được đất An Nam thực là lợi cả đôi đường" (Trần Trọng Kim, VNSL, sđd tr. 396).
Tài liệu tham khảo:
1/ Trần Trọng kim, Việt Nam Sử Lược, NXB VHTT & NS Trẻ Saigon 2002 (in lại theo bản in NXB Tân Việt trước 1975).
2/ Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, BGD (Trung tâm học liệu )XB, Saigon 1968.
3/ Lê Văn Hưu, Phan Phù Tiên và nhóm Ngô Sĩ Liên thời Hồng Đức (chỉnh lý & bổ sung), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư I&II, NXB VHTT, Hà Nội 2004.
4/ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (dịch: Viện Sử Học VN 1957-1960, NXB GD Hà Nội, 1998.
5/ Lê Văn Siêu, Văn Học Sử Việt Nam, NXB Văn Học & NS Văn Lang in lại, Saigon 2006.
6/ Kim Định, Triết Lý Cái Đình, Nguồn Sáng XB, Saigon 1971.
7/ Kim Định, Vấn Đề Quốc Học, Nguồn Sáng XB, Saigon 1971.
8/ Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, NXB An Tiêm, Saigon 1970.
9/ Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam, NXB Tân Việt, Saigon 1960.
10/ Trần Thế Pháp (Vũ Quỳnh & Kiều Phú nhuận chính), Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện, bản in lại của NXB Trẻ& NXB Hồng Bàng, Tân Bình, Saigon, 2016.
11/ Will Durant, Lịch sử văn minh Trung hoa (Nguyễn Hiến Lê dịch), bản in lại sau 75 NXB Văn hóa-Thông tin tại Saigon.
12/ Lê Mạnh Thát, Tổng Hợp Văn Học Phật Giáo Việt Nam, q. 1, Viện NCPHVN & NXBTPHCM, Saigon 2001
13/ Lê Thành Khôi, Lịch Sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến thế kỷ XX), NXB Nhã Nam&Thế Giới, Saigon 2014
Trang mạng tổng hợp tham khảo (wthtk):
1- https://vi. wikipedia. org/wiki/Việt_Vương_Câu_Tiễn
2- https://www. rfa. org/vietnamese/. . . /Get-out-of-cn-culture-how-ml-08152014191808. ht. . .
3- http://nghiencuuquocte. org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/
4- https://vi. wikipedia. org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_Minh
5- https://vi. wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:B%E1%BA%A3n_ %C4%91%E1%BB%93_
c%C3%A1c_qu%E1%BA%ADn_ph%C3%ADa
_%C4%90%C3%B4ng_B%E1%BA%AFc_n%
C6%B0%E1%BB%9Bc_Nam_Vi%E1%BB%87t. png
6- https://vi. wikipedia. org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_
h%C3%B3a_th%E1%BB%9Di_B%E1%BA%AFc
_thu%E1%BB%99c
7- https://www. youtube. com/watch?v=aC0GdhVQF88
8- https://vi. wikipedia. org/wiki/Văn_hóa
(Xem phần tiếp theo: Tác động của Trung Hoa đối với công cuộc đồng hóa từ thời Bắc thuộc cho đến các thời đại sau này)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét