PHẦN 2
Công cuộc đồng hóa của các thời kỳ Bắc thuộc từ nhà Tần đến Tây Hán, Đông
Hán và Đông Ngô.
Căn cứ vào những tư liệu lịch sử có được từ Trung Hoa và trong giới nghiên cứu
của phương Tây về những thời kỳ sơ khai của vùng đất này, Gs Kim Định (1) đã cho
rằng: ".... Viêm tộc đã có mặt ở khắp nước Trung Hoa cổ đại trước
khi các dòng tộc khác tràn vào, nên Viêm tộc kể là chủ đầu tiên"
(VLTN, sđd, tr. 53). Viêm tộc chính là cách gọi theo lối cổ chỉ các tộc vùng
phía nam trong đó có Bách Việt đã bị các bộ tộc người Hoa đánh chiếm các vùng
sinh sống ở trung nguyên, dạt ra các vùng núi non hiểm trở xa xôi. Và khi phải
chịu sự sinh sống vùng đất mới hoang sơ này, Viêm tộc đã bị kẻ chiếm đóng phần
đất cũ của mình là Hán tộc gọi với những tên có tính cách miệt thị coi thường
nhiều mặt như Di (phía Đông), Địch (phía
Bắc), Nhung (phía Tây) và Man (phía
Nam) và vẫn tiếp tục dòm ngó để có cơ hội sẽ tiếp tục tìm cách xâm chiếm! (gọi
là "man di" có nghĩa là dân mọi rợ, hoang dã, thiếu văn minh... )
(VLTN, sđd, tr. 57). (sau này, vua quan của nước Nam khi đã có triều đình
vững mạnh do bị nhiễm "thái độ miệt thị" của các vua Trung Hoa cũng
đã gọi các tộc vùng biên giới phía tây, tây bắc hay phía nam là "Di Địch" y như cách của người Trung Hoa) (xem ĐVSKTT, sđd, tr.398). Tuy nhiên, Gs Kim Định đã có một nhận xét đáng quan tâm khi xét về nguồn
gốc của Viêm tộc và Hán tộc: "... Nhà Tần cũng như nhà Hán và sau
này nhà Minh. v.v... thảy đều do Viêm tộc nhưng đã không còn vấn đề chủng tộc
mà chỉ có vấn đề hữu đạo và vô đạo...". Nhà Tần xuất phát từ
vùng núi non phía Tây Bắc cũng là gốc gác Nhung Địch nhưng khi bình định được
Trung Hoa đã trở thành một đế chế vô đạo, như cách nói của Gs Kim Định (xem
thêm, sđd tr. 99). Khi họ trở thành kẻ nắm quyền bính trên muôn dân, họ là kẻ
thống trị mà hầu như kẻ thống trị xưa nay đều vô đạo, tàn bạo.... Có thể họ
dùng đức, dùng nhân, dùng nghĩa… v.v... để cai trị nhưng cũng chỉ là giả đức,
giả nhân, giả nghĩa để bảo vệ sự thống trị của họ mà thôi! Những chế độ ĐỨC TRỊ
hay NHÂN TRỊ đích thực xưa nay thật là hiếm! Cho nên, xét một mặt nào đó, công
cuộc đồng hóa của Hán tộc đối với Việt tộc thời kỳ Hồng Bàng, Văn Lang cho đến
các thời kỳ Bắc thuộc và các giai đoạn sau này thường được các sử gia soạn
ĐVSKTT như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên đánh giá từ cái nhìn nhân bản là tính
cách vô đạo và hữu đạo, có đức hay không có đức. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn
thật kỹ việc đi xâm chiếm nước khác rồi tổ chức cai trị dân bản địa dù là dùng
cách cai trị nhẹ nhàng, khôn khéo, mềm dẻo, vỗ về họ cho yên ổn không chống
đối rốt cùng cũng chỉ là con đường vô đạo mà thôi! Chính sách đồng hóa dù hữu
đạo hay vô đạo đối với các thời đại xưa của Hoa tộc đối với dân ta dùng đủ cách
thức để đi đến mục đích là biến đổi dân vùng bị xâm chiếm và đất nước của họ
thành ra một châu ,quận kiểu Trung Hoa. Đó là cách làm khôn khéo của Triệu Đà,
Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp... v.v… hay tàn ác như của Tô Định, Mã Viện, Cao
Biền... v.v... khi thực thi chính sách đồng hóa tiên khởi của các triều đại
phương Bắc. Đồng thời, việc tìm hiểu các giai đoạn Bắc thuộc với chính sách
đồng hóa để thấy rõ hơn "giấc mộng Trung Hoa" ngày nay đi xâm
chiếm nước khác trong ý muốn "thống trị thiên hạ" nhất là với
dân tộc ta cùng các lân bang chưa bao giờ chấm dứt ! Các chế độ thực dân Anh,
Pháp, Hà Lan, Bỉ… v.v... phải đi đến việc giải thực theo trào lưu văn minh,
tiến bộ của nhân loại từ thế kỷ trước, nhưng những chính quyền Trung Hoa ở thế
kỷ 21 vẫn còn mang nặng đầu óc kiểu phong kiến độc đoán, tàn bạo và lạc hậu!
Đó là một loại "dân chủ tập trung kiểu mới" khác biệt với đa số thể
chế dân chủ văn minh, tiến bộ xem các lân bang bị họ xâm lược thuở xa xưa là
"thuộc địa cũ" của mình nên cách nhìn nhận của họ có cái gì đó rất
bất chính, bất lương, vô đạo vì vẫn gian trá thừa cơ cưỡng chiếm hay dùng đủ
cách chiếm những vùng đất của dân tộc khác chẳng dính dáng gì đến ngôn ngữ, tôn
giáo, văn hóa, phong tục, lãnh thổ... v.v... của họ như nước Tây Tạng, vùng
Tân Cương hay biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam... v.v... Xâm lăng,
đàn áp, bắt bớ, tù đày, diệt chủng và đồng hóa là những con đường vô đạo của
bọn bành trướng phương Bắc đã và đang thi hành. Bản chất ấy đến nay vẫn không
hề thay đổi theo sự tiến hóa chung của nhân loại. Nó càng vô đạo, hung hãn,
gian trá, xảo ngôn, tinh vi hơn xưa rất nhiều khi họ có được sức mạnh của kinh
tế, quân sự cùng những phương tiện khoa học kỹ thuật có được bằng đủ mọi
thủ đoạn, mọi cách thức! Thêm vào đó khái niệm đi "xâm
chiếm" không còn đóng khung ở việc đi chiếm đất đai mà còn mở rộng đến
việc xâm chiếm trí tuệ, công trình sáng tạo khoa học kỹ thuật, các lãnh vực
kinh tế, tài chính... v.v... để làm giàu cho nước mình, rút ngắn thời gian
"trỗi dậy" và có đủ sức mạnh dọa nạt thiên hạ! Đó là mối
họa rất lớn sắp xảy ra cho nhân loại một khi họ đã có thực lực kinh tế, quân
sự, dân đông và quá tham vọng! Nếu các nước theo con đường dân chủ, văn minh,
tiến bộ và tự do đích thực trên thế giới không đề phòng hoặc không có sự liên
kết để ngăn chặn ngay từ bây giờ thì hiểm họa bị xâm chiếm đủ mọi cách thức sẽ
xảy ra trong một thời gian không xa đe dọa nền hòa bình của nhân loại! Từ góc
độ nhìn nhận như thế, chúng ta thử nhìn lại những bước đường xâm lăng cùng
chính sách đồng hóa và cai trị của phương Bắc đã xảy ra như thế nào và với
những hình thức chủ yếu nào trong mười thế kỷ sau khi Văn Lang bị xâm lược.
Nếu phần 1 bên trên, chúng ta đã điểm qua một số nét chính trong những thời kỳ
Bắc thuộc theo cách phân chia vẫn được chấp nhận từ khi Trần Trọng Kim cho ra
đời Việt Nam Sử Lược thì trong phần 2 tiếp theo này chúng ta sẽ cùng nhau
nhìn lại sự hợp lý của việc phân chia các thời kỳ Bắc thuộc. Đồng thời sẽ đi
sâu hơn những khía cạnh của chính sách đồng hóa của phương Bắc đối với tinh
thần tự chủ người Việt chúng ta trong hơn một ngàn năm trước đây.
Có thể nói rằng cuốn ĐVSK 大越史記 do Lê Văn Hưu 黎文休 biên soạn ra đời thời vua Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông
rồi được bổ sung và hiệu đính bởi nhóm Ngô Sĩ Liên 吳士 連
và Vũ Quỳnh vào thời vua Lê Thánh Tông (căn cứ vào ĐVSK của LVH và cuốn ĐVSK
Tục Biên 大越史記續編
hay còn gọi là Quốc sử biên lục của Phan Phu Tiên 潘孚先 thời Lê Nhân Tông soạn ra) gọi là ĐVSKTT 大 越 史 記 全 書. Cuốn lịch sử này là nguồn sử
liệu chính yếu quí giá cho việc tìm hiểu lịch sử dân tộc ở những giai đoạn
thành lập nước Văn Lang phải đối diện với sự dòm ngó và xâm lược liên tục của
Trung Hoa. Sau này, bọn giặc Minh xâm lăng Đại Việt, biết bao sách vở, tư liệu
quí báu và ít ỏi của dân tộc ta về nhiều lĩnh vực đã bị bọn xâm lược tìm mọi
cách thâu tóm và phá hủy. Chính sách cai trị và đồng hóa gắt gao hơn xưa rất
nhiều. Nhưng thật may mắn cho nước nhà vì cuốn ĐVSK của LVH vẫn tồn tại nên Ngô
Sĩ Liên mới có chỗ dựa để bổ sung. Nếu nó bị quân Minh cướp đi sẽ là một thiệt
hại rất lớn cho dân tộc khi muốn tìm hiểu lịch sử của đất nước và tiền nhân!
Cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và nhiều nhà sử học
khác đều dựa chủ yếu vào ĐVSKTT nhưng việc hệ thống hóa và biên niên của VNSL
rất phù hợp với khoa học lịch sử. Ra đời vào năm 1921 trong thời kỳ Pháp thuộc
và dưới chế độ quân chủ của triều đình Huế, cuốn sách này là một trong những
cuốn lịch sử có giá trị về mặt sử liệu, về cách sắp xếp và tiếp nối các giai
đoạn sau từ nhà Hậu Lê đến khi thực dân Pháp thiết lập chính quyền cai trị mang
danh xưng là "Bảo hộ" (1897). Cách ghi nhận và bàn luận của tác giả
VNSL luôn luôn dựa vào tinh thần tự chủ dân tộc. Đồng thời, dẫu
được viết và phát hành trong thời kỳ Pháp thuộc nên phải khéo léo trong việc
đưa ra quan điểm của mình, nhưng chúng ta vẫn nhận ra tấm lòng yêu nước sâu sắc
của tác giả. Ông cũng như những người luôn nghĩ đến vận nước vẫn mong mỏi:
"Nước nào cũng có lúc bĩ rồi lại thái, đó là cái công lệ tuần
hoàn của tạo hóa trong thế gian. Từ xưa chưa thấy có nước nào cứ thịnh mãi hay
cứ suy mãi........ Sự ước ao mong mỏi như thế là cái nghĩa vụ chung cả chủng
loại Việt Nam ta vậy." (sđd, Phần Tổng Kết, tr. 604). Mong sao
thời đại của những kẻ vô đạo, đi ngược với con đường văn minh tiến bộ của nhân
loại sẽ bị đào thải theo "cái công lệ tuần hoàn",
"có lúc bĩ rồi lại thái" như cách suy nghĩ của nhà sử
học Trần Trọng Kim để đất nước được vươn lên vững mạnh, đầy đủ bản lĩnh sẽ cùng
với nhiều quốc gia khác trên thế giới, đối phó những tham vọng của phương Bắc
hầu cho thế giới này được sống trong sự tiến bộ với nền hòa bình bền vững.
Chúng ta cũng hy vọng rằng các nhà nghiên cứu sử học với những tìm hiểu của
mình sẽ công bố thêm những phát hiện mới mẻ bổ sung những tư liệu lịch sử khoa
học khác hơn cho việc tìm hiểu lịch sử dân tộc trong những thời kỳ Văn Lang
ngoài ĐVSKTT và VNSL.
1- Thời kỳ sau Văn Lang với việc Hán hóa của triều đại xâm chiếm Triệu Đà
(207-137 TCN) nên xem là sự khởi đầu của việc bị Bắc thuộc và đồng hóa.
Khi nhìn lại lịch sử mất nước của thời vua Hùng thứ 18 vào tay Thục Phán, sử
gia Lê Văn Hưu đã nhận xét: "Đến vua sau đức kém, lười chính sự,
bỏ việc vũ bị không sửa, ham vui tửu sắc, binh nước Thục vừa đến thì quốc thống
mất." ( sđd tr. 41). Việc mất nước chính là do sự yếu kém của
triều đại Văn Lang khi chỉ biết an hưởng thái bình ngay từ thời các vua Hùng
đầu tiên đã không lo đầy đủ việc phòng giặc bên ngoài dòm ngó. Đồng thời, tổ
tiên chúng ta thời Văn Lang chưa có kinh nghiệm xây dựng một nhà nước tập trung
với hệ thống quyền lực chặt chẽ. Lối cai trị vẫn mang tính địa phương do các
tộc trưởng đảm nhận và còn sơ sài trong khi bên Trung Hoa đã thiết lập hệ thống
triều đình phong kiến vững vàng, có nề nếp, có nhiều luật lệ được qui định, có
sự phát triển của tư tưởng, văn hóa... v.v... đã từ hơn hai ngàn năm trước.
Trong phần "Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận" (ĐVSKTT, sđd, tr. 39) do
Lễ bộ thượng thư Lê Tung soạn thời Lê Túc Tông (1514) có đoạn nhận xét:
"Hùng Vương nối nghiệp của Lạc Long, chăm ban đức huệ, để vỗ yên
dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, chẳng có can qua chinh chiến.... buộc nút
dây mà làm chính trị, dân không gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu
quê mùa." Đó là hình ảnh đơn giản thuần phác trong việc
cai trị của triều đại vua Hùng. Thục Phán, theo sử sách cũng là người
Âu Việt gần bên đã chiếm Văn Lang sát nhập với cương vực cũ của mình thành nước
Âu Lạc cai trị triều đại mới với hai tộc chính là Lạc Việt và Âu Việt với chế
độ chính trị vẫn chưa có hệ thống qui củ. Tuy nhiên, Thục Phán An Dương
Vương cai trị dân chúng không để lại tiếng tăm xấu trong lịch sử. Dù Thục Phán
có lo phòng bị binh mã, xây Loa Thành nhưng cuối cùng phải chịu thần phục nhà
Tần là một nước rất mạnh bên Trung Hoa bấy giờ. Đất Âu Lạc của hai tộc
Việt bị chia thành ba quận là Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây ) và
Tượng Quận (châu thổ sông Hồng và vùng Nghệ An, Thanh Hóa). Cũng giai
đoạn này, các tộc Việt nhân quân lính của Tần phái qua do Đồ Thư chỉ huy không
hạp thủy thổ bị bệnh nhiều đã nổi lên giết được Đồ Thư. Bên Trung Hoa, nhà Tần
lúc này có các phe phái chống đối nổi lên khắp nơi. Nhân cơ hội đó, Nhâm Ngao
là quan úy coi quận Nam Hải có ý muốn đánh lấy Âu Lạc cũ của An Dương Vương.
Ngao không kịp thực hiện ý định đó đã bị bệnh nặng nên giao lại cho Triệu
Đà đang làm quan úy của nhà Tần ở Nam Hải. Nhờ chuẩn bị binh mã và có
đủ thông tin về vũ khí, thành quách, binh lính của An Dương Vương nên Đà đã
chiếm được Âu Lạc. Cho nên, nếu xét cho đúng, nước ta thực sự bị phương
Bắc cai trị từ giai đoạn Triệu Đà (207-137 TCN) sát nhập Âu Lạc vào quận Nam
Hải đặt tên nước mới là Nam Việt với kinh đô là Phiên Ngung (Quảng Châu TQ bây
giờ). Nam Việt của Triệu Đà bao gồm các người tộc Lạc Việt, Âu Việt và
chắc chắn phải chung sống với các Hoa tộc khác từ quận Nam Hải cũ cũng như từ
cuộc di dân hàng vạn người theo lệnh Tần Thủy hoàng "đem những
hàng binh phải tội đồ 50 vạn người sang đóng đồn ở Ngũ Lĩnh"
(xem ĐVSKTT, sđd tr. 77). Di dân đến vùng xâm chiếm là một trong những
chính sách đồng hóa nguy hại cho dân bản địa vì những người đem sang
nước ta sẹ đi kèm với văn hóa, phong tục, lễ nghi... v.v.. của nước họ
sẽ dễ tác động và làm biến đổi những sinh hoạt với phong hóa vốn có của người
dân bản địa bị họ đô hộ. (Hiện nay, chính sách di dân theo hình thức của ngàn
năm trước để đồng hóa người Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương như chúng ta đã
biết)
Triệu Đà quê ở Chân Định (Hà Bắc, bắc Trung Hoa) là quan nhà Tần cùng
Nhâm Ngao được cử sang trấn thủ vùng Nam Hải. Khi Ngao chưa mất, Triệu Đà làm
Long Xuyên Lệnh của quận Nam Hải và coi ngó việc di dân người Hoa xuống
các vùng Lĩnh Nam. Khi Ngao mất đi, Đà đảm nhiệm chức quan úy của Nam
Hải. Cả Nhâm Ngao và Triệu Đà đều mong muốn có giang san riêng nên khi Ngao
bệnh sắp mất đã chỉ thị cho Đà: "Nhà Tần sẽ mất nước thôi, nên dùng mưu
kế đánh Thục Phán, có thể dựng nước được" ( ĐV SKTT, sđd tr. 78). Việc
chiếm Âu Lạc của An Dương Vương, nói như Trần Trọng Kim đã nhận xét: "... Triệu Đà lập ra nước Nam Việt, đem văn minh nước Tàu sang
truyền bá phương nam, cho nên từ đó về sau người nước mình đều nhiễm cái văn
minh ấy" (sđd, tr. 37). Có thể nói rằng công cuộc Hán
hóa lãnh thổ của người Việt khởi đi bởi Triệu Đà. Sử sách Trung Hoa
như Nam Việt Liệt Truyện 南越列傳
thời nhà Hán đã ghi rõ về giai đoạn này. Đưa Hoa tộc sống chung với
người Việt, dùng cách cai trị của các triều đại phương bắc để điều hành Nam
Việt, "lấy thi thư mà biến đổi tục nước "(2)
ĐVSKTT, (sđd, tr. 42)... v.v... là những hình thức đồng hóa đầu tiên mà Triệu
Đà áp dụng khi chiếm Âu Lạc. Thi thư chỉ những sách dạy phong hóa, tập tục, lễ
nghi... của người Hoa cổ sau được Khổng Tử san định, là những cuốn sách nền
tảng dạy đạo nghĩa của nho giáo (2). Cho nên, tính chính danh của Triệu Đà vẫn
là vấn đề đang tranh cãi khi dùng những phong hóa, lễ nghi và sách vở chính yếu
của phương Bắc áp đặt cho dân Nam. Trong khi đó, có nhiều người đã cho
rằng người Việt xưa nay đã đi thờ kẻ xâm lăng ngoại bang như Triệu Đà vào hàng
tiên tổ có vì công ơn dựng nước là một việc làm cần xem lại và gạt bỏ! Về
phía Trung Hoa, khi phân tích lịch sử giai đoạn này với nhiều nguồn tài liệu
của thư khố, người Hoa vẫn xác định là Triệu Đà là người có công chiếm Âu Lạc
cho Trung Hoa vì danh phận, gốc gác, công lao Hán hóa của ông. Sử Trung Hoa đã
ghi nhận năm 214 TCN, nhà Tần sai Triệu Đà mang 50 vạn dân binh xuống vùng Lĩnh
Nam mới đánh chiếm được để chung sống và bắt đầu đồng hóa người Việt bằng cách
hòa trộn tộc Việt và các người phương Bắc di cư sang. Dẫu cho là Triệu Đà khi
đón tiếp sứ giả Hán Cao Đế sang Nam Việt "ngồi xổm mà tiếp Lục Giả" xưng là "Man Di đại trưởng lão phu" (sđd. tr. 84. 89) có chút gì đó
bị Việt hóa nhưng cũng chỉ là cách tùy thuận, khôn khéo để dễ bề cai trị thôi!
Cho nên việc Triệu Đà Chiếm Âu Lạc từ Thục Phán An Dương Vương phải nên xem đó
là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất và là bước đồng hóa chính thức có quy
mô đầu tiên của một triều đại phong kiến kiểu Trung Hoa đối với tộc Âu Việt và
Lạc Việt. Sau này có thêm những người tự ý di dân xuống phương Nam để định cư
(chẳng hạn tổ tiên của Sĩ Nhiếp sẽ cai trị tiếp theo đã có sáu đời sinh sống ở
Giao Châu) càng thêm đông đảo người phương Bắc sống trộn lẫn với người
Việt. Lê Văn Hưu đã ghi nhận: "Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương
dựa có hàng trăm người" (sđd tr. 121) giúp cho việc đồng hóa và cai trị
nước ta bằng chữ nghĩa, lễ nghi, luật lệ, phong tục... v.v... của phương Bắc
thuận tiện hơn. Việc di dân sẽ kèm theo lề lối sinh sống, văn hóa của Hoa tộc,
nếu người Việt không có bản lĩnh, sẽ dễ dàng tiếp nhận và mất dần bản sắc riêng
của dân tộc mình. Dĩ nhiên, bản sắc và bản lĩnh dân tộc tùy thuộc rất nhiều vào
những người có ảnh hưởng nhất định các bộ phận dân tộc như các dòng dõi Lạc
hầu, Lạc tướng, các trưởng tộc... v.v... Giới thủ lĩnh các bộ tộc người Việt
phải biết chữ Hán để giao tiếp và làm việc với giới cai trị Hoa tộc nhưng rất
nhiều người vẫn giữ được tinh thần tự chủ. Đó là bước đầu của sự đối kháng với
việc tiêm nhiễm tràn vào từ phương Bắc. Vậy cho nên cái gì của Hán tộc truyền
sang nước ta chứa đựng mưu mô xâm lược và đồng hóa hãy nên gửi trả lại cho Hán
tộc! Cái gì thực sự cần thiết cho việc giữ nước và vun đắp nhân tài xây dựng
cho đất nước vững bền dù là của Hán tộc hay các quốc gia nào văn minh tiến bộ
cũng nên gạn lọc, chọn lựa những tinh hoa để bồi đắp cho cái thiếu của nước
mình! Một đất nước với dân bản địa là tộc Việt để cho người phương Bắc là
Triệu Đà làm vua là chuyện chẳng đặng đừng sao lại được một số sử sách nước nhà
ca ngợi ông ta là ông vua tốt chẳng hợp lý chút nào! Cho nên, công lao
"khai hóa" của Triệu Đà chẳng qua là áp dụng chính sách đồng hóa theo
lối Hoa tộc mà thôi. Một trăm năm Nam Việt được yên ổn (207-111 TCN)
dưới thời Triệu Đà cũng chẳng qua là vì dòng họ Triệu Đà trên đất Việt muốn
hưởng an vui ở phía nam trong khi bên nhà Tần bắt đầu loạn lạc. Chính sách cai
trị của Triệu Đà mềm mỏng hơn đối với người bản xứ để họ không chống đối hầu
cho triều đại của Đà và con cháu được yên ổn hưởng sự phú quí của bậc đế vương
"sánh ngang với Hán Cao Tổ" (ĐVSKTT) và bờ cõi biệt lập một phương
trời ! ĐVSKTT đã nhận xét và ca ngợi rằng: " Đến như các việc sai sứ
(sang nhà Hán) thì rất khiêm tốn, Nam Bắc giao hoan, thiên hạ vô sự, hưởng
lộc nước hơn trăm năm, đáng là bậc vua anh hùng tài lược..." (sđd,
tr. 42). Rõ ràng tài thao lược của Triệu Đà làm sao cho "thiên hạ vô sự" để hưởng thụ thái bình cùng với dòng họ Hoa tộc của mình. Trừ khi đó là
một ông vua thuộc hàng vua Nghiêu, vua Thuấn đức hạnh cao khiết của huyền sử!
Ngay như người anh hùng dân tộc vĩ đại là Trần Hưng Đạo cũng xem Triệu Võ Vương
(Vũ Vương) tức Triệu Đà là người có công "dựng nước". ĐVSKTT có ghi
lại câu chuyện: Hưng Đạo Vương ốm nặng, vua ngự đến thăm,
hỏi rằng: "Chẳng may chết, giặc phương Bắc lại
xâm lấn thì kế sách ra sao?". Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa
Triệu Vũ Đế dựng nước, vua Hán cho quân đánh thì nhân dân dùng kế thanh dã"
(ĐVSKTT, sđd, tr. 548). Theo cách nói đó, Hưng
Đạo Vương đã cho rằng Triệu Đà đã có công dựng nước! Những ngộ nhận như thế sẽ
gây ra sự lầm lẫn khi công nhận kẻ đi xâm chiếm như Triệu Đà đứng vào hàng
tiên liệt lập ra nước Nam của chúng ta!!
Mặt khác, khi đem "thi thư"
cùng chữ nghĩa Nho học của Hoa tộc cùng với cách thức cai trị Nam Việt theo lối
tổ chức phương Bắc, Triệu Đà chính là kẻ khởi sự cho công cuộc đồng hóa sau
này. Chúng ta biết rằng khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa đã triệt để cấm đoán
Nho học và đã cho đốt sách vở của Nho gia, chôn sống nhiều nhà nho chống đối và
đề cao việc dùng hình pháp đế cai trị theo đường lối của Thương Ưởng. Trong khi
đó Triệu Đà xưng đế ở phương Nam một mình một cõi và tiếp tục công việc Bắc hóa. Cho đến khi Đà thần phục nhà Đông Hán của Quang Vũ, nhiều nho sĩ phương Bắc
qua Lĩnh Nam tiếp tay thêm cho công cuộc Hán hóa của Triệu Đà phát triển. Vậy
có thể nói cho phù hợp thực tế là nước Nam Việt của Triệu Vũ Vương là triều đại
xây dựng mô hình đồng hóa và khởi đầu cho việc Bắc thuộc lần thứ nhất không
phải đợi đến khi dòng họ Triệu bị "Phục Ba tướng quân" Lộ Bác Đức (4)
và tùy tướng Dương Bộc của Hán Vũ Đế sai sang tiêu diệt Nam Việt đổi tên là
Giao Chỉ Bộ (111 TCN-39 SCN) mới gọi là thời Bắc thuộc (xem thêm TTK, sđd, tr.
47). Dĩ nhiên, mức độ đồng hóa thời nhà Tây Hán của Hán Vũ Đế với tộc Việt xảy
ra khắc nghiệt và tàn bạo hơn nhiều! (xem thêm từ ĐVSKT & VNSL và
Wikipedia/ Triệu Đà). Cho nên cách đồng hóa của người Hoa thông qua việc cai
trị của Triệu Đà có thể tóm tắt vào hai điểm chính:
a- Dùng sách vở, phong tục, tập quán, lễ nghi của phương Bắc áp đặt
dân ta phải chung đụng, làm mai một chữ viết cũng như phong hóa, tập tục của
cha ông ta đã có từ thời Hồng Bàng, Văn Lang.
b- Cho di dân số lượng đông đảo người phương Bắc (50 vạn người!) trong
đó có hạng nho sĩ, những người không có đất canh tác sang đây làm lụng và nhất
là các kẻ bị tù tội, lưu đày sống chung với cộng đồng người Việt, lấy vợ Việt,
sinh con đẻ cháu tạo điều kiện cho việc Bắc hóa dễ dàng.
Do đó, ĐVSKTT của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên... v.v... và VNSL của Trần Trọng Kim
sau này đều có chung cách nhận xét cho rằng mốc điểm thời kỳ Bắc thuộc
lần nhất là từ năm 111 TCN khi quân Lộ Bác Đức sang xâm lược Nam Việt dẹp tan
nhà Triệu. Mốc điểm này nên xem lại cho sát thực tế vì Triệu Đà là
quan úy phương Bắc sang xâm chiếm nước ta theo lệnh nhà Tần năm 207 TCN, rồi
tự xưng đế cai trị nước ta nhân khi bên Tần có loạn [Lê Văn Hưu rồi Ngô Sĩ Liên
trong ĐVSKTT dùng từ "Kỷ Thuộc Tây Hán" (sđd, tr. 107), Trần Trọng Kim
dùng từ chính xác hơn gọi là "Bắc Thuộc Lần thứ Nhất" (VNSL, sđd,
tr. 47) ]. Còn "công ơn" của Triệu Đà nên nhìn nhận theo cách như đã
nói bên trên. Khi đọc lại và tìm hiểu lịch sử thời kỳ này, chúng ta đều thấy
chính sách cai trị Nam Việt của Triệu Đà không có những đối kháng nào đáng kể
vì ít nhiều ông đã lấy "hữu đạo", lấy sự yên vui của trăm họ để cai
trị như cách phân tích của Gs Kim Định. Chính vì thế sử thần Ngô Sĩ Liên đã bàn: "Truyện (Trung Dung) có nói: Người có đức lớn thế nào cũng có ngôi,
thế nào cũng có danh, thế nào cũng sống lâu. Vũ đế (Triệu Đà) làm gì được như
thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi" (sđd tr. 93). Có đức chính là "hữu
đạo" vậy! Trước đó, sử thần Lê Văn Hưu nhà Trần cũng từng bàn luận: "... Người làm vua nước Việt sau này, nếu biết bắt chước Vũ Đế (Triệu Đà)
mà giữ vững bờ cõi, đặt quân trị nước, giao thiệp với láng giềng, theo đạo, lấy
nhân giữ ngôi, thì giữ được bờ cõi dài lâu, người phương Bắc không thể lại ngấp
nghé được" (sđd, tr. 93). Làm một ông vua khôn ngoan, lấy nhân giữ ngôi
cũng chính là "hữu đạo" vừa giữ được ngôi vua, vừa được thiên hạ thái
bình. Đó là con đường đồng hóa tương đối tốt đẹp, khôn khéo nhưng muốn
hay không một người Hán tộc cai trị trên muôn dân Việt làm sao không mất đi
được tinh thần tự chủ của dân tộc! Vì sao sách sử xưa lại dễ dàng
khuyên các vua Việt sau nên bắt chước Triệu Đà là người phương Bắc, kẻ đã dẹp
tan An Dương Vương để lấy cơ đồ của Âu Lạc?! Có lẽ thời kỳ này chúng ta chưa
có được những thủ lĩnh tài giỏi, đức độ có đủ khả năng để đứng lên khởi nghĩa
chống ngoại xâm nên một "ông vua ngoại bang" được các sử thần xưa
đánh giá tốt đã thành một mẫu mực làm vua chăng?! Mặt khác ,sử liệu từ thời
Triệu Đà (214 TCN) cho đến khi vua Trần Thánh Tông cho soạn tiếp ĐVSKTT cách
nhau đã hơn 1500 năm. Cách đánh giá công trạng kẻ cai trị còn lẫn lộn khi xem
họ là những tiền nhân gắn bó và thân thiết với dân tộc Việt!
Sau này, các thời kỳ bị lệ thuộc phương Bắc, cũng áp dụng phương cách đó với
việc sử dụng tiếng Hán trở thành phổ biến trong mọi giao tiếp nơi phủ đường,
đình miếu, chùa chiền, văn bản hành chính... v.v... Chữ Hán và tư tưởng Khổng
giáo chính là công cụ đắc lực cho công cuộc đồng hóa của phương Bắc đã du nhập
vào Lĩnh Nam manh nha từ trước thời Triệu Đà nhưng đến thời họ Triệu được đẩy mạnh
hơn khi sách vở "thi thư" (chữ dùng của ĐVSKTT) (2) của Khổng Tử theo
chân những quan lại cai trị và các người Hoa di dân định cư ở Giao Châu được
dùng "dạy" và giao tiếp người Việt. Sách Hán Thư 後漢 có nói: "Phàm hữu đạo thuật giai vi nho 凡有道術皆為儒 nghĩa là: Hễ có đạo thuật đều là Nho. Nho học thực sự đã
có từ trước thời nhà Hán. Quan lại, danh sĩ phương Bắc qua Lĩnh Nam dạy đạo lý,
dạy nghề nghiệp, dạy phong tục lễ nghi... v.v... đều là kẻ xuất thân từ nhà nho
cả. Dạy chữ Nho là dạy chữ của Hoa tộc mà sau này gọi là dạy chữ Hán vì nó đã
có từ xưa, được lan truyền mạnh mẽ vào thời thuộc Tây Hán và Đông Hán của nhà
Hán bên Trung Hoa. Khi Hán Cao Tổ Lưu Bang dẹp được Tần, Sở lên ngôi vua nghe
theo lời của các danh sĩ theo phò, đã dùng Nho giáo, Lão giáo hay Mặc giáo giúp
củng cố cho quyền lực triều đình. Hán Nho từ thời Đông Hán với Hán Quang Vũ Đế,
theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư, lấy Nho học làm quốc học chứ không chú
trọng các "Bách gia" khác. Nho học với "thi thư" của Khổng
Tử trở thành cái học chính yếu, độc tôn cho các đời sau và bắt đầu thịnh lên từ
đó. Ngay từ thời Triệu Đà, Nho học đã có mặt và người Việt đã dùng chữ Hán
nhưng đọc theo âm Việt. Chính nhờ không học tiếng Hán như là một sinh
ngữ nên người Việt vẫn giữ nguyên được tiếng bản xứ. Việc tiếp xúc với chữ
Hán làm cho "một phần ba kho ngữ Việt có gốc ở tiếng Tàu"
(Phạm Văn Diêu, sđd tr92, 93) giúp cho việc diễn đạt đa dạng và sâu sắc
hơn nhưng sử dụng theo cách nói của người Việt. Dẫu sao các tiếng âm Hán
Việt cũng làm giàu cho ngôn ngữ Việt trong thực tế. Cái gì hay và giúp
cho tiếng Việt thêm phong phú mà không làm mất đi bản sắc và giữ được tinh thần
dân tộc thì nên duy trì với sự lựa chọn tỉnh táo. Và với sự hoàn chỉnh
của chữ quốc ngữ ngày càng tốt hơn, những từ Hán Việt nào có thể thay thế bằng
chữ quốc ngữ vừa sâu sắc hơn vừa nhuần nhuyễn sẽ giúp cho con đường Việt hóa
càng mang bản sắc dân tộc đậm đà.
Cũng có các nghiên cứu, tìm tòi của Gs Kim Định cho rằng người Việt cổ và người
Hoa cổ đều sử dụng chữ tượng hình mà dân gian quen gọi là chữ Nho. Cho nên về
sau hình thành hai con đường Việt Nho và Hán Nho. Giữa văn hóa của Viêm tộc và
Hoa tộc cũng có tác động qua lại với nhau (VLTN, sđd tr. 78). Vấn đề này vẫn
chưa được rõ ràng vì các chứng cứ lịch sử còn nhiều điều cần bàn luận nhưng thực
tế văn hóa Hoa tộc đã tiêm nhiễm vào nước ta từ hai ngàn năm nay khởi đi từ
thời Triệu Đà. Do đó, Gs Kim Định đã nêu lên một vấn đề đáng chú ý:
"Thí dụ tại sao người Việt vốn chống đối Tàu mà lại không bao giờ
chống đối Nho giáo nói chung thì chỉ có thể giải nghĩa bằng giả thiết này là
trong tiềm thức tiên tổ vẫn nhớ đó là di sản dân tộc, nếu không thì đâu có chấp
nhận Nho giáo sớm thế, dễ thế!" (Vấn đề nguồn gốc Việt Nho, sđd, tr.
67) Nói khác hơn, các tộc Viêm Việt trước thời Hồng Bàng đã sử dụng chữ Nho, đã
biết Nho học bao gồm "Bách gia chư tử" khi mà Khổng học chưa chiếm
địa vị độc tôn như dưới thời Hán Quang Vũ Đế!
Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu cũng nhận thấy thấy tuy Nho học được dùng như
công cụ đồng hóa nhưng khi bình tĩnh và cân nhắc cho kỹ lưỡng, chúng ta vẫn
nhận thấy nó vẫn cần thiết. Gs Kim Định cho rằng "... chính Nho
giáo mới là căn bổn của nền quốc học Việt Nam, và nhổ bỏ đi tức là cũng nhổ gốc
rễ của mình, là bỏ mất những huyết quản tiếp sức sống cho mình"
(VLTN, sđd. tr. 157). Sau này, khi thực dân Pháp qua xâm lược nước ta, văn hóa,
khoa học kỹ thuật của họ đã tạo một bản sắc mới khi mà Nho giáo làm kềm hãm
việc tiếp thu những cái mới của nhân loại. Chúng ta ghét bỏ công cuộc cai trị
của thực dân của Pháp nhưng những tinh hoa của tây phương thông qua khoa học,
kỹ thuật, văn học, văn minh Pháp vẫn có nhiều vấn đề cần học hỏi để xây dựng
đất nước trong thời đại mới ! Công cụ đồng hóa chủ yếu của giặc xâm lược phương
Bắc xưa kia hay phương Tây thời cận đại chính là sức mạnh của quân sự, của vũ
khí, của lòng tham lam, sự bạo ngược của bọn người xâm lược mà thôi.Riêng giặc
xâm lược phương Bắc lại kèm thêm sự thâm hiểm , tàn độc ,dối trá ,hung hãn... v.v...
nữa!
2- Đợt đồng hóa thứ hai sau khi nhà Tây Hán đánh chiếm Nam Việt của
Triệu Dương Vương (111 TCN) với Nhâm Diên và Tích Quang
Trước âm mưu đen tối muốn đem nước Nam dâng cho nhà Hán của Triệu Ai Vương và
thái hậu Cù thị là người gốc Hoa, tể tướng Lữ Gia và triều thần đem cấm binh
giết sứ Hán, Ai Vương và Cù thị rồi tôn Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương,
có mẹ là người Nam Việt, lên ngôi hiệu là Triệu Dương Vương. Hán Vũ Đế Lưu
Triệt đã sai Phục Ba Tướng quân (4) Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem năm đạo quân
sang đánh chiếm Nam Việt, giết vua tôi nhà Triệu và bắt đầu thiết lập hệ thống
cai trị mới với tên gọi nước ta là Giao Chỉ Bộ tương đương một tỉnh của họ với
chín quận như cách phân chia bên Trung Hoa. Đất đai của tiên tổ Hồng
Bàng bị Triệu Đà chiếm lấy nay rơi tiếp vào tay nhà Tây Hán bao gồm các quận có
tên mới: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô, Quế Lâm (Uất Lâm cũ, Quảng Tây),
Hợp Phố (Tượng Quận cũ, Quảng Đông), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (vùng châu
thổ sông Hồng trải xuống Nghệ An, Thanh Hóa), Châu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam).
Vùng sinh sống của hai tộc Âu Việt và Lạc Việt đến thời này đã bị co lại nhiều
so với thời trước và sau triều đại Hồng Bàng chủ yếu tập trung vào vùng châu
thổ sông Hồng và xuống phía nam đến vùng Nghệ An.
Thuở đầu, Hán Vũ Đế nhà Tây Hán sai Thạch Đái làm thái thú, rồi đến Chu Chương.
Khi bên nhà Hán bị loạn Vương Mãng, Giao Châu mục là Đặng Nhượng tự lo binh bị
để giữ Giao Châu (hay Giao Chỉ bộ 交趾部). Hán Quang Vũ lấy lại nhà Hán sau khi dẹp loạn Vương Mãng
lập nên nhà Đông Hán, phong cho Nhượng, Đỗ Mục, Tích Quang ở hạng tước hầu cả.
Sau này có thêm Nhâm Diên được Hán Quang Vũ cử thêm sang làm thái thú Cửu Châu.
Hai viên thái thú là Tích Quang và Nhâm Diên được sử sách chú ý hơn hết vì công
cuộc đồng hóa có những mặt thiết thực cho người Việt:
- Tích Quang
qua làm thái thú quận Giao Chỉ từ thời Hán Bình Đế nhà Tây Hán (1-3 SCN, trước
khi loạn Vương Mãng mấy năm). Tích Quang lưu tâm việc dùng lễ nghĩa để dạy dân
(ĐNSKTT, sđd tr. 108)
- Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân thời Hán
Quang Vũ nhà Đông Hán(năm Kiến Vũ) lưu tâm chỉ dạy cho dân chúng thêm về việc
trồng trọt, cày cấy cho có thóc gạo để có lương thực mà ăn ngoài nghề phổ biến
chính của dân bản địa là săn bắn và chài cá. Ông cũng chỉ cho dân chúng tập tục
cưới hỏi khi lập gia đình theo phong tục của Trung Hoa khi những luật lệ ,phong
tục của đời sống dân Nam còn sơ sài (xem Mục 3 bên dưới về cách nhìn
nhận của Mã Viện khi nói đến Việt luật)
Đây là hai viên thái thú ít nhiều được dân Nam mến mộ khi dùng đức tức là
"hữu đạo" để thu phục lòng người qua việc dạy dân những việc thiết
thực. Sử sách chỉ nói đến hai viên thái thú như ĐVSKTT ( trích lại từ Hậu Hán
Thư, là sách sử chính yếu của nhà Đông Hán) đã nói rằng: " Phong hóa văn
minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy" (sđd, tr. 109). Điều đó
cho thấy, người Trung Hoa thời này lấy làm tự hào vì đã dạy "phong hóa văn
minh" cho người Việt. Chín quận chỉ có hai viên thái thú được nhắc tên như
những người hiền, số thái thú còn lại chắc là không mấy tốt đẹp và ấn tượng!
Nhưng những ai tha thiết đến vận mệnh đất nước và tinh thần tự chủ chắc chắn
không mong cầu một hình thức đồng hóa mới như thế! Đó là con đường đồng hóa đã
mở rộng ra những gì mà thời Triệu Đà đã đặt nền móng. Gs Lê Mạnh Thát (3) gọi
công việc như thế là "trợ hóa", ông giải thích: "... Trợ hóa
đây thực chất là để "giúp đỡ cho nền cai trị". Mà nền cai trị này
không còn dựa vào "điển huấn của tiền thánh", "pháp
luật của Hán gia" nữa..." ( LMT, sđd, tr. 160). Nói khác đi,
cách đồng hóa của Tích Quang, Nhâm Diên khôn khéo, uyển chuyển hơn khi cai trị
Giao Châu nhưng xét cho cùng cũng chỉ là công việc trợ hóa, trợ giúp linh động
cho công việc đồng hóa và cai trị của phương bắc được dễ dàng mà thôi! Cho
nên, sử thần Lê Văn Hưu về sau khi bình luận giai đoạn lệ thuộc Đông Hán đã
mong muốn: "Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử
người Bắc tham tàn làm khổ...... thường thắp hương khấn trời, xin trời vì nước
Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà để khỏi người phương Bắc bóc
lột" (sđd tr. 119). Ước mong của Lê Văn Hưu thời nhà Trần cho tới ngày
nay vẫn còn tính lịch sử vì chỉ có "thánh nhân" người Việt đích thực
không bị Hán hóa cách này hay cách khác, là người có tài năng và lòng thương
dân, yêu nước thiết tha mới đánh tan được giấc mộng Trung Hoa và làm băng rã
chính sách đồng hóa "toàn trị " liên lũy từ xưa đến nay đối với chính
dân chúng của họ và nhiều nước chung quanh mà thôi. Nói là họ "đồng hóa
ngay chính dân chúng của họ" xưa nay là vì các chính thể từ phong kiến
Trung Hoa xưa kia cho đến hiện giờ bản chất thống trị, độc đoán, khắc nghiệt...
v.v... đều giống nhau. Dân chúng của họ luôn luôn bị cưỡng chế phải khuôn theo
luật pháp do họ định ra khi thay đổi chế độ hay nói khác đi họ "bị
đồng hóa theo những chính sách và luật lệ của kẻ cầm quyền đặt ra".
Lê Văn Hưu nhìn lại lịch sử thời Bắc thuộc mà ngậm ngùi như thế, còn chúng ta
nhìn lại biết bao tình thế xưa nay do Trung Hoa gây ra lại không căm phẫn hay
sao!
3- Đợt đồng hóa thứ ba thời Đông Hán mang dấu ấn của Sĩ Nhiếp (187- 226)
Khi Tích Quang và Nhâm Diên sau một thời gian ngắn được trở về phương Bắc, Hán
Quang Vũ lại cử Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Y là kẻ bạo ngược, cai
trị hà khắc tàn ác. Y đã ra tay giết Thi Sách chồng của Trưng Trắc, con gái một
lạc tướng khiến bà cùng em là Trưng Nhị đứng lên khởi nghĩa đoạt được 65 thành
trì, xưng vua đóng đô ở Mê Linh (Phúc Yên) nhưng rồi cũng bị thua trận và tự
vẫn nơi dòng sông Hát trước đoàn quân mạnh mẽ của Phục Ba tướng quân (4) Mã
Viện. Sau khi dẹp tan được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà(43 SCN), Mã Viện cho đúc
những trụ đồng đặt ở nhiều nơi. Đồng được thu nạp từ việc bắt dân ta nộp các
trống đồng cổ của tiền nhân Việt để đúc trụ. Trên trụ đồng, Mã Viện cho ghi
khắc: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt 銅 柱
折, 交 趾
滅" Nếu trụ đồng bị gãy đổ, vùng
Giao Chỉ sẽ bị diệt vong (ĐVSKTT, kỷ thuộc Đông Hán). Đây là lời răn đe khắc
nghiệt đối với tộc Việt chúng ta thể hiện cường quyền của kẻ xâm lược. Gs Lê
Mạnh Thát đã mạnh mẽ lên án sự đàn áp khốc liệt khi Mã Viện dẹp được Hai Bà
:"Mã Viện..... không những phải vây bắt hàng trăm "cừ soái" đày
đi Linh Lăng, thu gom trống đồng để đúc trụ mà còn"điều tấu Việt luật hơn
mười việc khác với Hán luật"(sđd, tr83). Từ đó, trải qua các thời vua Hán
từ Quang Vũ, Minh đế, Chương Đế, Hòa Đế, Thương Đế, An Đế, Thuận Đế, Xung Đế,
Chất Đế, Hàn Đế, Linh Đế, Hiến Đế với 12 đời vua Hán, đất Việt bị sự cai trị
theo "Hán luật" và tiêm nhiễm nhiều phong hóa từ nhà Đông Hán phương
Bắc mất thêm 195 năm nữa (25-220 SCN). Công việc cai trị của các quan lại nhà
Đông Hán không phải bao giờ cũng êm xuôi như thời Triệu Đà. Rất nhiều lần các
thứ sử và quan lại nhà Đông Hán ở Lĩnh Nam đã bị dân chúng tạo loạn, nổi lên
chống đối do họ áp đặt sưu cao thuế nặng lại bắt đi tìm sản vật quí giá như
ngọc trai, vàng bạc, đá quí... v.v... Hệ thống công quyền với những văn thư hành
chính, luật lệ, phong tục, chữ viết, tôn giáo... theo đoàn quân cai trị vào đất
Việt là những ảnh hưởng của Trung Hoa bước đầu đã xâm nhập trong nhiều sinh
hoạt của dân Nam. Ngay cả bộ phận người Việt làm việc cùng với hệ thống cai trị
của nhà Hán như Thi Sách và các Lạc Hầu, Lạc Tướng của dân Nam chắc chắn phải
học và biết chữ Hán mới có thể giao dịch, làm việc với bọn người cai trị.
Cuối thời Đông Hán bên T. H, chỉ có
Lý Tiến, người bản xứ, đậu mậu tài được cất lên làm thứ sử ở Giao Chỉ. Sau có
Lý Cầm, Trương Trọng, Kim Thành... cũng làm quan cho nhà Hán nhưng chỉ cai trị
trong nước (TTK, sđd tr. 52). Nhìn cho kỹ, họ cũng chỉ là những tay sai làm
cho bọn xâm lược. Chính vì thế, Gs Lê Mạnh Thát (3) đã nhận xét: "Khi
người Hán có mặt trên đất Việt thì nhất định có một số người Việt đã Hán hóa"
và ông đã thẳng tay phê phán hạng người như Lý Tiến, Lý Cầm... : "... cũng
như có một số người Việt đã Hán hóa như Lý Tiến, Lý Cầm đã cầu cạnh xin làm
quan với nhà Hán. May mắn là đất nước ta chỉ có một số rất ít những tên như bọn
chúng, nếu trọn cả một dân tộc đều như thế thì có phải chúng ta mất nước từ lâu
rồi không? Sử ta lại ghi những tên trí thức bán nước cầu vinh này là những
người Việt ưu tú vì được Trung Quốc trọng dụng, trong khi đáng lý nếu chúng có một
chút quan tâm cho quê hương thì phải biết đứng lên tranh đấu khi đất nước đang
bị khổ đau dưới ách thống trị của phương bắc, sao lại có chuyện cúi đầu xin vua
Tàu để làm quan, tự đồng hóa mình thành người Tàu như bọn chúng?" (LMT,
sđd tr. 291, 292) Đúng như thế, kẻ "tự đồng hóa mình thành người
Tàu" theo sự phê phán mạnh mẽ của Gs Lê Mạnh Thát trong các thời
kỳ đất nước bị xâm lược kiểu cũ hay kiểu mới đều có. Ngày nay, chắc chắn vẫn
còn lắm kẻ bại hoại hơn thế, đội dưới lốt này lốt kia làm tay sai cho kẻ thù
muôn đời của dân tộc....
Đó là tác động đồng hóa trên một số nhỏ người Việt cam lòng làm tay chân cho họ
như bọn Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng... v.v... Và cũng như thời Triệu Đà, tác
động đồng hóa phát triển mạnh mẽ hơn cả của nhà Hán là chính sách được thực thi
bởi các quan lại do họ cử sang nước ta chẳng hạn trường hợp của Sĩ Nhiếp đã có
những ảnh hưởng lâu dài. Cuối đời Đông Hán, nhiều thế lực khác như Ngụy
(220-263), Tôn Ngô (222-280) nhân triều đình suy yếu đã nổi lên tranh giành với
hai ông vua cuối cùng của nhà Hán (tức Chiêu Liệt đế và Hậu Chủ nhà Thục Hán,
221-238). Bên nước ta, bấy giờ do Sĩ Nhiếp(187-226) làm thái thú Giao Chỉ và
Trương Tân làm thứ sử. Nhiếp quê ở nước Lỗ, tổ tiên qua nước ta lánh nạn Vương
Mãng đã sáu đời. Sĩ Nhiếp từng qua kinh đô nhà Hán du học và rất chú trọng sách
Tả Thị Xuân Thu. Nhiếp đỗ hiếu liêm được làm chức Thượng thư lang. Sau lại đỗ
mậu tài được bổ về làm thái thú Giao Chỉ (được cải tên mới là Giao Châu交洲). Khi nói về Sĩ Nhiếp, Lê Văn Hưu đã nhận xét: " Sách
Ngô Chí có chép một lá thư của Viên Huy nhà Hán gửi từ Giao Châu cho thượng thư
lệnh Tuân Húc năm 207, trong đó có một đoạn như sau: "Sĩ Nhiếp ở Giao
Châu đã học vấn sâu rộng lại giỏi chính trị, nên trong buổi đại loạn, vẫn giữ
được một quận yên ổn hơn 20 năm, bờ cõi không việc gì, dân vẫn yên nghiệp..." ( ĐVSKTT, sđd, tr123 và NL, sđd, tr. 30). Với bề dày sáu đời sinh sống ở
Giao Chỉ, lại gặp khi bên nhà Hán rối ren nên Sĩ Nhiếp cùng quan hiệp trấn Chu
Phù không còn là chính quyền nhà Hán mà tự quyền cai quản Giao Chỉ một cách độc
lập! Sĩ Nhiếp và các đời cha ông của mình sống ở Giao Châu đã lâu nên hiểu rõ
địa lý, dân tình người bản địa. Việc Sĩ Nhiếp "vứt bỏ điển huấn của tiền
thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" được xem là một hình thái "Việt
hóa", tùy thuận và hòa đồng cùng chung sống với những phong tục và tôn
giáo của người Việt (xem TTVHPGVN, sđd tr. 159). Vì thế, trước đó khi Trương
Tân làm thứ sử "thích việc quỷ thần, thường đội khăn màu đỏ, gảy đàn, đốt
hương đọc sách đạo, nói rằng có thể giúp việc giáo hóa" (ĐVSKTT sđd, tr.
124). Tân mất đi, quyền hành giao cho Sĩ Nhiếp với nghi vệ đi theo cũng như
Trương Tân: "Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết: kèn sáo
thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương....."
(ĐVSKTT, sđd tr. 124). Người Hồ đề cập ở đây và việc đốt hương cho thấy sự có
mặt của các sư Phật giáo người Tây vực hay Ấn Độ đã vào nước ta thời đó. Đồng
thời, việc tiếp nhận văn hóa bản xứ như tục ngồi xổm, xăm mình, ăn trầu... cũng
như văn hóa từ phía tây Giao Chỉ sang ít nhiều cũng cho thấy tinh thần cởi mở
của Sĩ Nhiếp. Ngay cả các nhà làm sử nước ta khi nói về Sĩ Nhiếp thì cách nhìn
nhận về việc cai trị của ông ta vẫn xem ông là người hữu dụng trong việc dùng
lễ nghi để cai trị như cách nghĩ của Lễ bộ Thượng thư Lê Tung kiêm Đông Các Đại
học sĩ thời Lê Túc Tông (1514): "Sĩ Vương tập theo phong hóa nước Lỗ, học
vấn rộng khắp, khiêm tốn với sĩ phu, đem thi thư để biến đổi tục nước, lấy lễ
nhạc để sửa lòng người..." (ĐVSKTT, phần Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận,
sđd, tr. 43) Dùng Khổng học, dùng thi thư, dùng lễ nhạc để "sửa lòng người" chính là cách đồng hóa quá khôn ngoan và làm cho người viết sử cũng có
thể lần lẫn khi nhìn nhận đức hạnh và công lao một người thay mặt triều đại Hoa
tộc cai trị xứ Giao Châu! Còn sử thần Ngô Sĩ Liên chắp bút hiệu đính
và bổ sung cho ĐVSKTT lại hết sức ca ngợi Sĩ Nhiếp với lời lẽ quá đáng ("...
Há chẳng lớn sao") và cho việc các anh hùng hào kiệt đứng lên chống đối
là có "tội bất hiếu" với cha già đáng kính cai trị và đồng hóa dân
tộc mình: " Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm một nước văn hiến
là bắt đầu từ Sĩ vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà có thể
truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con mà bất hiếu là tội
của con thôi!" (sđd tr. 126). Những lệch lạc trong cách bàn luận
của người làm sử về cái hay, dở của một con người hay triều đại mà không nhìn
rõ bản chất sự việc hay con người quả rất tai hại cho người về sau nếu đọc
sử mà không suy xét đúng sai! Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu
như nhà bác học Trương Vĩnh Ký khi tìm hiểu thời kỳ Bắc thuộc có Sĩ Nhiếp cai
trị đã đưa một nhận xét đáng lưu tâm: "Sĩ Nhiếp đã du nhập toàn
bộ văn học Trung Hoa, cùng đạo lý Khổng Tử, ép buộc dân An Nam phải tiếp nhận
làm văn hóa của mình, và cấm dân An Nam dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt
riêng của người An-nam." (5) Như thế, thời kỳ này nước Việt xưa
đã hình thành một loại chữ viết riêng nhưng bị nhà cầm quyền từ Triệu Đà cho
đến Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp về sau ép buộc dùng chữ Hán kèm theo
"Thi Thư" của đạo Nho giáo khiến loại chữ cổ này bị mai một. Một số
công trình của Gs Nguyễn Tài Cẩn và cộng sự ở miền Bắc VN mấy chục năm gần đây
đã tìm kiếm và công bố một số tự dạng chữ viết cổ của dân tộc Việt có trên
trống đồng và nhiều cổ vật tìm kiếm được. Hy vọng sẽ có nhiều công trình khác
nữa soi sáng vấn đề này! Ngày nay chữ quốc ngữ ngày càng hoàn thiện nhưng việc
nghiên cứu khoa học để xác thực như Trương Vĩnh Ký và nhiều nhà ngôn ngữ học,
sử học cho thấy tổ tiên chúng ta thời Hồng Bàng, Văn Lang đã có chữ viết. Đó là
một vấn đề mới mẻ cần làm sáng tỏ bằng những công trình khảo cứu chính xác.
Đồng thời, việc làm sáng tỏ bằng luận chứng khoa học sẽ là niềm tự hào của
chúng ta về nguồn gốc văn hóa, văn minh của Văn Lang. Chính sách đồng hóa của
các triều đại Trung hoa đã gây thiệt hại lớn di sản này. Cho nên, cách đồng hóa
của những kẻ nho học như Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp rất khôn khéo vừa được
lòng dân bản địa, vừa đạt được phần nào trong việc dùng Nho giáo và chữ Hán để
đồng hóa làm phai nhạt tinh thần tự chủ của người Việt. Đó là mặt phải và mặt
trái của công cuộc đồng hóa trong các giai đoạn Bắc thuộc. Chúng ta có thể mượn
lời của ĐVSKTT để tổng kết sơ lược công cuộc đồng hóa của các triều đại phương
Bắc từ Triệu Đà đến thời của Đông Ngô gồm hai chính sách cơ bản:
a- "....
dời những người có tội ở Trung Hoa sang ở lẫn vào các nơi ấy (tức Giao
Châu)".
b- "cho
học sách ít nhiều, hơi hiểu ngôn ngữ.... do đó trông thấy lễ hóa..." (sđd
tr. 129 với lời dịch hơi trúc trắc!)
Về mặt lãnh thổ, thời Sĩ Nhiếp cai quản nước ta với cái tên Giao Chỉ do phương
Bắc đặt, bên Trung Hoa đang có ba thế lực tranh giành nhau là nhà
Ngụy, Thục Hán (Tây Thục) và Đông Ngô (220-280). Đông Ngô gần Giao Chỉ và cũng
đang mạnh, muốn chiếm Giao Chỉ nên Sĩ Nhiếp vẫn theo lệ cũ thay vì cống nhà Hán
nay quay sang triều cống Đông Ngô để khỏi bị dòm ngó. Khi Nhiếp mất, con là Sĩ
Huy tự lên làm thái thú nên bị vua Đông Ngô là Tôn Quyền tức giận sai Đái Lương
và Trần Thì sang đánh chiếm giết Sĩ Huy giao Lữ Đại làm thứ sử với danh hiệu
Giao Châu mục (kẻ chăn dắt, cai trị Giao Châu). Đất Giao Châu trước được Tôn
Quyền chia ra từ Hợp Phố (vùng biển phía nam Phiên Ngung) tính về phía bắc gọi
là Quảng Châu, phía nam là Giao Châu, Cửu Chân nay gọi chung là Giao Châu. Phần
lãnh thổ Phiên Ngung, Hợp Phố đã bị Trung Hoa thôn tính từ những giai đoạn này.
Những người dân Bách Việt bản địa ở đồng bằng Giang Châu với các quận Phiên
Ngung, Hợp Phố.... sau nhiều thế kỷ đã bị Hán hóa đã trở thành người Hoa Quảng
Châu ; còn người Lạc Việt ở vùng châu thổ sông Hồng tuy bị Bắc thuộc và có sự
trà trộn với người di cư từ phía Bắc xuống nhưng chỉ bị tiêm nhiễm ít nhiều văn
hóa, phong tục phương Bắc mà thôi chứ chưa bị Hán hóa. Các sử gia xem việc
thành lập Quảng Châu với 3 quận tách khỏi Giao Châu thời Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu
vào năm 264 với mưu tính lâu dài là sáp nhập vùng đất của người Bách Việt thành
ra lãnh thổ của Đông Ngô nói riêng và Trung Hoa nói chung. Vùng Quảng Châu gồm
các quận như Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm là vùng có nhiều tộc Bách việt đã bị
Hán hóa từ những thời kỳ An Dương vương và cũng thuận tiện cho việc phòng giữ
vì là vùng đồng bằng. Còn vùng Giao Châu có nhiều núi non cách trở gồm Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, việc đồng hóa tuy mạnh mẽ với nhiều đợt nhưng
tộc Lạc Việt vẫn giữ được tương đối nguyên vẹn bản sắc của mình và tạo cơ hội
cho các đợt vùng lên giành quyền tự chủ sau này.
4- Sự khởi đầu cho thời kỳ tự chủ với cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu và tiến
đến thời kỳ nêu cao tinh thần tự chủ của Lý Nam Đế và Triệu Việt Vương
Khi đọc lại lịch sử dân tộc ở những thời kỳ mới xây dựng đất nước và những thời
kỳ mất nước phải chịu lệ thuộc phương Bắc, chúng ta không khỏi tự hào khi có
những trang sử thời kỳ mất nước vẫn có nhiều anh hùng nêu cao tinh thần tự chủ
và độc lập dân tộc. Họ đã không quản ngại hy sinh và bền bĩ đứng lên đấu tranh
để tiến đến những thời kỳ tự chủ lâu dài hơn. Tấm gương của những vị anh hùng
dân tộc này sẽ mãi mãi soi sáng cho những bước đường giữ nước nhất là trong các
giai đoạn đầy khó khăn xưa nay.
4. 1 - Khi Sĩ Nhiếp mất (226), con là Sĩ Huy tự xưng làm thái thú,
Tôn Quyền nhà Ngô sai thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại đem quân đánh quận Cửu Chân chém chết Sĩ Huy và
bắt năm anh em Sĩ Huy về Ngô làm tội. Năm 248, Lục Dận được vua Ngô sai làm thứ
sử Giao Châu . Bọn quan lại nhà Ngô là những kẻ tham lam và bạo tàn gây nhiều
tổn hại cho dân chúng nên Triệu Ẩu và anh là Triệu Quốc Đạt đứng lên khởi
nghĩa. Câu nói tràn đầy hùng khí và kiên cường của bà Triệu Ẩu được dân gian
lưu truyền có thể xem là sự khởi đầu cho việc quật khởi và nêu cao tinh thần tự
chủ: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá kình
lớn ở biển đông, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối". Đường sóng dữ
hay cá kình lớn chính là bọn giặc xâm lược đang thống trị dân nước Nam mà bà và
những người có tâm huyết đã "cưỡi cơn gió mạnh" bắt đầu đứng lên.
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng hình ảnh oai phong khi cưỡi voi ra trận và
lời nói dũng liệt của bà đã ghi dấu lịch sử như là mốc điểm khơi mào tinh thần
tự chủ. Sau cuộc nổi dậy thất bại của anh em Bà Triệu, đất nước lần lượt thay
ngôi đổi chủ theo tình hình tranh giành quyền lực bên Trung Hoa từ triều Đông
Ngô (năm 227), sang nhà Tấn ( 265). Từ Tấn lại chuyển sang cho Tống (427). Khi
nhà Tống hết thời, Giao Châu lại bị chuyển sang cho nước Tề (479), Tề lại
chuyển tiếp qua tay nhà Lương (502-540). Suốt 315 năm bị các thế lực bên Trung
Hoa tranh giành nhau và nước bị xâm chiếm như Giao Châu nước ta cũng thay đổi
theo các biến chuyển đó. Nhưng dù dưới triều đại nào của Trung Hoa trong thời
gian này, dân ta vẫn phải chịu những việc đàn áp, sưu cao thuế nặng cung phụng
cho bọn cướp nước. Từ sau thời Bà Triệu, ĐVSKTT không đề cập gì đến việc đồng
hóa và cai trị của các triều đại này. Nhưng tình hình quân Lâm Ấp ở phía nam
thường xuyên quấy phá gây ra bao nỗi đau thương cho Giao Châu phải gánh đủ khó
khăn. Đất nước bị lệ thuộc phương Bắc nên bọn Lâm Ấp (tức là Chiêm Thành sau
này ) khi mạnh lên có lúc đã đòi triều đình Hán tộc được phép cai quản Giao
Châu thay họ! Chẳng hạn như năm "Nhâm Thân (432), Tống Nguyên Gia năm thứ
chín, mùa hạ, tháng năm, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống,
xin lĩnh Giao Châu..." (ĐVSKTT, sđd, tr. 141). Đất nước bị xâm chiếm nên
ngoại bang coi thường ! Mặt khác, do bị Bắc thuộc nên Giao Châu không có binh
bị hay hệ thống phòng thủ tốt vì do bọn cai trị phương Bắc nắm hết quyền bính
nên mỗi khi bên Trung Hoa có loạn lạc là quân Lâm Ấp lại thừa cơ sang quấy phá.
4. 2- Nối tiếp con đường tự chủ của Bà Triệu, trước sự tham lam, tàn ác
của quan lại Lương Vũ Đế (541) và sự quấy phá Giao Châu của quân Lâm Ấp, Lý Bôn
hay còn gọi là Lý Bí đã dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư về nước,
chiếm thành Long Biên. Qua năm sau nữa (543), Lý Bôn đã sai tướng Phạm Tu vào
vùng Cửu Đức (Hà Tĩnh) đánh đuổi quân Lâm Ấp phải chạy vế nước. Lý Bôn gốc
người Hán nhưng qua Giao Châu đã bảy đời nên đã Việt hóa nhiều. Ông thấu hiểu
nỗi khổ của người dân bị mất nước sống hòa mình cùng dân Việt nên chúng ta xem
ông như con dân đất Việt.
Năm 544, Lý Bôn xưng vua hiệu là Nam Việt Đế 南越帝 sử sách gọi là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân 萬春. Vậy là kể từ khi Thục Phán chiếm Văn Lang, đổi tên nước là
Âu Lạc, rồi bị Triệu Đà xâm chiếm đổi thành Nam Việt, trải qua một thời gian
khá dài tên nước đã bị mất và trở thành châu quận của phương Bắc, bây giờ mới
có được quốc hiệu trong một thời gian ngắn ngủi! Nhưng con đường dành lại quyền
tự chủ cũng lắm chông gai. Năm 546, thứ sử Dương Phiêu và tướng Trần Bá Tiên
nhà Lương đem quân sang, Lý Nam Đế đương cự không lại nên rút về Khuất Liêu
(Hưng Hóa) giao binh quyền cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chiếm lĩnh vùng
đầm lầy Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) làm kế đánh địch lâu dài.
Năm 546, Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Đánh nhau
với quân Trần Bá Tiên lâu ngày bị cạn lương thực mà vẫn chưa phá được quân
giặc. Nhân cơ hội bên nhà Lương có biến loạn, Trần Bá Tiên bị triệu về nước nên
Triệu Việt Vương đánh đuổi quân giặc lấy lại thành Long Biên. Năm 557, người họ
hàng xa của Lý Nam Đế tên là Lý Phật Tử đem quân về đánh Triêu Quang Phục nhưng
không lại phải xin giảng hòa nhưng Phật Tử lại âm thầm chuẩn bị đánh Long Biên.
Năm 571, Phật Tử bất ngờ đem quân đánh, Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại
Nha tự vẫn. Nhưng năm 602, nhà Tùy đã thống nhất được Trung Hoa đem quân sang
đánh, Lý Phật Tử thấy thế mạnh của quân Tùy nên xin hàng. Thời kỳ tự chủ ngắn
ngủi của Vạn Xuân lại rơi vào tay giặc xâm lăng thêm 336 năm nữa (603-939). Khi
tìm hiểu đế hiệu của Lý Bôn hay rồi đến thời của Triệu Quang Phục, chúng ta
thấy rõ tinh thần tự chủ và niềm tự hào làm người Việt phương Nam của hai vị
vua tiếp nối tinh thần tự chủ của Bà Triệu : Lý Bôn xưng là Lý Nam Đế,
Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Từ đó chúng ta thấy
rằng việc đồng hóa của Bắc phương đã thất bại khi tinh thần yêu nước vẫn còn
mạnh mẽ trong nhiều tầng lớp dân Việt trước những đợt sóng dữ biến nước Nam
thành lệ thuộc trên ngàn năm. Có lẽ trong lịch sử thế giới, chưa có nước nào
chịu sự đô hộ với nổ lực đồng hóa lâu dài trên một ngàn năm của giặc xâm lược
phương Bắc như thế mà vẫn có thể tồn tại ! (Cho nên những cái tên vẫn được
nhiều người đời sau không để ý khi dùng nó như Giao Chỉ, An Nam chỉ là
những cái tên biểu tượng một thời đất nước ta trở thành châu quận lệ thuộc
Trung hoa đầy tủi nhục (với cái tên "Giao Chỉ quận" hay "An Nam
Đô hộ phủ"). Nó chỉ nên nhắc đến khi nói về lịch sử chứ không nên dùng như
với niềm tự hào mình là người Giao chỉ, mình là người An Nam....)
4. 3- Đợt lệ thuộc lần thứ tư kéo dài 336 năm (603-939) ròng rã từ
thời nhà Tùy (589-617), tiếp theo là nhà Đường (618-907) rồi đến đời Ngũ Quí
bên Trung Hoa mà trực diện là nhà Nam Hán.
- Khi nhà Tùy sai Lưu Phương sang dụ hàng Lý Phật Tử (602), nhà Tùy đã cai trị
nước ta được 27 năm, chủ yếu là đánh quân Lâm Ấp thường sang quấy phá và nhân
tiện cướp lấy châu báu của nước này có được do được yên bình lại hay cướp phá
các nước chung quanh tích trữ của cải dồi dào.
Năm 618, nhà Tùy bị mất vào tay nhà Đường, thái thú Giao Châu là Khâu Hòa thần
phục nhà Đường nên được phong Giao Châu đại tổng quản. Y là một viên quan biên
trấn rất giàu có nhờ vào các nước như Lâm ấp và các bộ tộc dâng nạp lễ vật. Bắt
đầu từ đây nước ta từ tên Giao Châu thời Đông Hán nay lại bị
nhà Đường đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ rồi chia thành 12 châu.
Trần Trọng Kim đã nhận định về giai đoạn lệ thuộc này: "Từ khi nước ta
thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả..... những nhà làm
sử nước ta sau cứ theo sử Tàu mà chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy"
(sđd, tr. 66). Tuy sử sách giai đoạn này ghi chép sơ lược nhưng chúng ta cũng
thấy bọn quan cai trị nhà Đường cũng tham lam tìm cách vơ vét, bày ra sưu cao
thuế nặng nên mới xảy ra các cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan đời Đường Huyền
Tôn (722) khiến vua Đường phải sai tướng Dương Tư Húc hợp cùng quan đô hộ mới
dẹp được. Khi ghi lại việc này ĐVSKTT đã dùng từ rất sai trái khi viết: "Tướng
giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu xưng là Hắc Đế....". Một
người can đảm vì nghĩa lớn đứng lên vì nước sao lại dùng từ "Tướng giặc". Người viết sử đứng về phe xâm lược hay người dân bị đô hộ?! Và sách sử
của Lê Văn Hưu cũng ca ngợi gián tiếp những người gốc quận Cửu Chân học hành
theo lối của kẻ cai trị đậu tiến sĩ làm quan và có công lao cho nhà Đường như
Khương Công Phụ (sđd, tr. 169). Hạng người này, như cách Gs Lê Mạnh Thát đã nói
bên trên, cũng chỉ là kẻ trí thức tiếp tay cho bọn giặc cướp nước mà thôi!
Cũng do lòng tham lam và tàn ác nên năm 791 do việc bắt dân ta đóng góp nặng nề
nên hào phú Phùng Hưng đã nổi lên vây phủ đường khiến An Nam Đô Hộ Phủ Cao
Chính Bình lo sợ phẫn uất mà chết (sđd, tr. 170). Khi Phùng Hưng mất, con là
Phùng An tôn xưng là Bố Cái Đại Vương. Trương Chu rồi Cao Biền, Vũ Hồn làm quan
đô hộ Giao Châu cũng bắt dân đắp thành, đóng thuyền rất khổ cực ((sđd, tr. 172,
173). Thời gian này, ngoài bọn giặc xâm lược, dân ta còn chịu sự đánh phá, cướp
bóc của quân Lâm Ấp và nhất là quân Nam Chiếu từ phía tây bắc kéo xuống nữa. Sử
sách đã ghi lại: "Nam Chiếu hai lần đánh Giao Châu vừa giết, vừa bắt gần
15 vạn người. Lưu hai vạn quân sai Tư Tấn giữ thành Giao Châu của ta..." (sđd, tr. 179). Đất nước bị một cổ hai tròng, vừa với bọn giặc Đường xâm
lược lại thêm bọn Lâm Ấp rồi Nam Chiếu quấy phá khiến dân chúng thiệt hại người
và của rất lớn. Thời Tùy Đường, Giao Châu bị đô hộ một khoảng thời gian khá dài
mất 304 năm ròng (603-906)với tên mới An Nam Đô Hộ Phủ. Sử liệu không đề cập
chính sách đồng hóa của phương Bắc với dân ta thời kỳ này nhưng với thời gian
cai trị dài như thế, nhà Tùy, nhất là nhà Đường đã mang nhiều sách vở vào nước
ta. Thời nhà Đường, nhất là thời Đường Minh Hoàng (Đường Huyền Tông) văn học
thịnh trị nên thơ văn nhà Đường do bọn người cai trị mang vào sẽ hấp dẫn các
thành phần trí thức đang dần dần biến thành nho sĩ kiểu cách Trung Hoa. Bên
cạnh đó, bã vinh hoa, phú quí cũng là một cách thức để những "kẻ sĩ"
nước ta làm việc cho bọn người xâm lược. Ba trăm năm lệ thuộc nhà Đường, nước
ta chịu ảnh hưởng sâu đậm phong cách nhà Đường về mặt tổ chức triều đình, luật
lệ, phát triển nho học, văn học và nhiều loại hình khác.
- Năm 907, nhà Đường mất Giao Châu vào tay nhà Hậu Lương. Rồi Giao Châu lại
quay trở lại với nhà Hậu Hán hay còn gọi là Nam Hán (923). Trong khoảng thời
gian này, những "kẻ sĩ" có khả năng và tâm huyết như dòng họ Khúc với
Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, nhân khi nhà Đường suy tàn, năm dòng họ
bên Trung Hoa tranh giành nhau đứng đầu thiên hạ (gồm Hậu Lương, Hậu Tấn, Hậu
Chu, Hậu Hán và Hậu Đường), đã đứng ra cha truyền con nối làm thủ lĩnh dân Việt
với sự chấp nhận của các thế lực này tùy lúc mạnh yếu. Khi nhà Hậu Hán (Nam
Hán) có thực lực để dòm ngó Giao Châu đã đem quân bắt Khúc Thừa Mỹ đưa Lý Khắc
Chính và Lý Tiến sang cai trị. Dương Diên Nghệ là tướng của Khúc Hạo trước đây
đã nổi lên đánh đuổi được hai viên quan cai trị này xưng làm Tiết độ sứ. Vua
Nam Hán ban cho tước vị để chiêu dụ Dương Diên Nghệ (có sách viết là Đình Nghệ)
nhưng chỉ được sáu năm đã bị tên Kiều Công Tiện (sách VNSL gọi là Tiện còn
ĐVSKTT gọi là Tiễn) giết chết để cướp quyền. Sách sử Trung Hoa như cuốn Ngũ Đại
Sử (thời năm triều đại tranh dành quyền lực) cũng phải nhìn nhận rằng: "
Vua Hán bảo tả hữu rằng : Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ nên ràng buộc thôi"(ĐVSKTT, sđd tr. 189). Dân "Giao Chỉ" chúng ta "hay làm
loạn" nghĩa là thường có dịp là đứng lên tìm mọi cách đánh đuổi bọn xâm
lược. Đó là ý thức tự chủ, dành lại sự độc lập cho dân tộc khởi phát từ những
người anh hùng như Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền... v.
v... "hay làm loạn" vì không thể chấp nhận sự đô hộ của ngoại bang
đó thôi !
PHẦN 3
Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đã mở ra một giai đoạn mới nêu cao tinh
thần tự chủ cho các triều đại về sau.
1- Với ý thức tự chủ như thế, Dương Diên Nghệ đã âm thầm tụ tập
được ba ngàn tráng sĩ để mưu tính khôi phục lại đất nước (Xem ĐVSKTT, sđd, tr.
190). Mưu tính của họ Dương bị quan chức cai trị như Lý Tiến biết được đã thông
báo cho vua Nam Hán. Diên Nghệ vây bắt Lý Tiến nhưng y trốn thoát chạy về nước.
Quan thừa chỉ Trần Bảo được cử sang đánh nhưng bị quân binh Dương Diên Nghệ
giết chết. Họ Dương tự xưng là Tiết độ sứ Giao Châu nhưng bị tên Kiều Công
Tiện(Tiễn) là nha tướng âm mưu giết Nghệ để dành quyền bính. Nha tướng khác của
họ Dương là Ngô Quyền từ Ái Châu đem quân ra đánh Tiện. Vua Nam Hán nhân việc
cầu cứu của Tiện đem quân tiến chiếm nước ta. Ngô Quyền nghe quân Nam Hán do
vua Hán đích thân ra trận giao cho thái tử Hoằng Thao theo đường thủy đi trước
còn vua Hán yểm trợ từ Hải Môn. Ngô Quyền cho quân giết Tiện trừ hậu họa vì sợ
nội ứng (938). Hoằng Thao dẫn thủy quân đi vào trận thế trên sông Bạch Đằng do
Ngô Quyền chuẩn bị sẵn với cọc gỗ bịt sắt nhọn nhô lên khi nước rút khiến
thuyền bè của Thao rối loạn và bị đắm nhiều. Ngô Quyền lúc đó huy động quân
lính đi thuyền nhỏ ra đánh khiến quân giặc chết quá nửa, bắt được thái tử Hoằng
Thao đem giết đi. Vua Hán nghe tin rụng rời, than khóc và rút lui về Phiên
Ngung.
Chiến thắng Bạch Đằng đã mở ra trang sử mới. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương tức
Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Phúc Yên) và thiết lập triều chính, ấn
định sắc phục và quan chức, chỉnh đốn lại công việc điều hành một đất nước
trong thời kỳ tự chủ hoàn toàn, sạch bóng quân giặc. Ba trăm năm lệ thuộc nhà
Đường, nước ta chịu ảnh hưởng sâu đậm phong cách nhà Đường về mặt tổ chức triều
đình, luật lệ, phát triển nho học, văn học, giáo dục và nhiều thứ khác nữa.
Riêng về việc tổ chức triều đình đã được Ngô Quyền áp dụng khi xưng vương sau
khi chiến thắng quân Nam Hán. Ngô Quyền là nha tướng của Dương Diên Nghệ và cả
hai từng gần gũi với hệ thống cai trị của nhà Đường. Khi đánh tan quân Nam Hán,
nhờ sự hiểu biết về việc cai trị của phương Bắc nên Ngô Quyền khi lên ngôi vua
đã nhanh chóng xây dựng và củng cố hệ thống triều đình. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã
nhận xét: " Nhà Tiền Ngô nổi lên được, không những là chỉ có công chiến
thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục có thể thấy
được quy mô của đế vương " (ĐVSKTT, sđd, tr 194). Nếu việc cai trị thời vua
Hùng nhẹ nhàng đơn giản, " thuần hậu quê mùa "( chữ của LVH, xem phần
trên) , qua hơn 1000 năm bị Bắc thuộc chắc chắn người Việt đã học được cách tổ
chức điều hành nhà nước từ kẻ cai trị. Đó cũng là sự cần thiết để sau này có
những triều đại thịnh trị và vững vàng nhiều mặt như triều Lý, triều Trần,
triều Lê mà phần lớn việc tổ chức các mặt của triều đình như binh bị, luật
pháp, giáo dục, lễ nghi phải chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Vấn đề chịu những
ảnh hưởng tốt và xấu như thế nào lại là một vấn đề khác nữa sẽ bàn về sau. Cho
nên, việc giành lại quyền tự chủ đất nước là một việc khó khăn và thuận theo
thời thế nhưng nếu không biết cách trị nước sao cho hợp lòng dân và có bài bản
sẽ khó xây dựng được được đất nước được thịnh trị, ổn định và hùng cường để sẵn
sàng đối phó với ngoại xâm. Tuy thời đại của Ngô Vương ngắn ngủi (939-965)
nhưng ông đã đặt được nền tảng việc xây dựng triều đình mà các triều đại sau sẽ
nối tiếp vững vàng hơn.
2- Sau khi Ngô Quyền mất đi, Dương Tam Kha đã cướp ngôi từ cháu là
Ngô Xương Ngập ( kêu Kha bằng cậu). Loạn 12 sứ quân bắt đầu xảy ra khắp nước.
Đinh Bộ Lĩnh theo sứ quân Trần Minh Công và khi Minh Công mất, quyền hành về
tay Đinh Bộ Lĩnh.
Chỉ trong vòng một năm, ông đã dẹp được hết các sứ quân khác và lên ngôi hoàng
đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt 大𡚝越 , đóng đô ở Hoa Lư. Tuy xưng là hoàng đế nhưng Đinh Bộ Lĩnh
phải lĩnh chức phong "Giao Chỉ Quận Vương" của nhà Tống, và chấp nhận
triều cống hằng năm để đất nước được yên ổn tạo tiền lệ cho các vua đời sau.
Vua Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt cũng mang một ý nghĩa tự hào về sự
lớn mạnh của nước Việt [ cồ: (nôm 𡚝) nói theo tiếng nước Nam có nghĩa là sự lớn mạnh, to lớn;
gốc tiếng Hán của "cồ" là "cù"瞿 chỉ sự ngơ ngác, kinh ngạc, nhìn gườm gườm, binh khí như
cây kích, họ Cù.. ]. Rõ ràng bầu khí yêu nước và niềm tự hào về nước Nam đang
lan tỏa từ sau những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu... v. v... tạo
nên một sức mạnh mới cho các thời đại sau : đó là lòng yêu nước.
3- Trước việc nhà Tống chuẩn bị mang quân sang nước ta, vua Đinh
còn trẻ nên
các tướng sĩ đã tôn Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn黎桓 lên ngôi, với danh xưng là Đại Hành hoàng đế 大行皇帝 (989) ngang ngữa với hoàng đế Trung Hoa! Cách xưng hiệu như
thế cho thấy tinh thần tự chủ rất cao trong giới từng cầm giữ binh quyền như Lê
Hoàn. Việc vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống xâm lược, giết được tướng giặc là
Hầu Nhân Bảo cũng cho thấy sự lớn mạnh của đội quân bảo vệ đất nước bấy giờ.
Nhưng các vua đầu tiên của nước ta cũng thấy rõ thế mạnh và mưu đồ xâm lược của
phương Bắc không thể dập tắt được nên phải dùng con đường ngoại giao và triều
cống để giữ yên bờ cõi. Vua Đại Hành chấp nhận trên danh nghĩa chức Tiết độ sứ,
rồi Tống lại gia phong Nam Bình Vương cho nhà vua chỉ có giá trị về mặt hình
thức. Kế tiếp vua Lê Đại Hành đem quân đánh Chiêm Thành, chiếm được kinh thành
của họ, buộc họ phải hàng năm triều cống nước ta là một thành tích quân sự lớn
lao đối với một nước mới giành quyền tự chủ.... Vững vàng về binh bị, khôn khéo
trong ngoại giao và nhất là tự tin vào khả năng chiến thắng được quân địch là
một trong những bài học tự cường quan trọng của tiền nhân để giữ gìn độc lập
cho đất nước mà các thế hệ sau cần lưu tâm. Các vua tài giỏi thuở đầu tỏ ra
không hèn kém trước phương Bắc hơn hẳn đất nước ta nhiều mặt! Một Ngô Quyền
lẫm liệt dám bắt sống và chém chết thái tử Nam Hán là Hoằng Thao; một Lê Đại
Hành uy dũng phá tan quân Tống, bình định quân Chiêm Thành thường quấy phá là
những hình ảnh sáng ngời của thời kỳ tự chủ. Nhờ những nỗ lực đó, dân tộc ta
bước sang thời kỳ mới đã có được những triều đại rỡ ràng, những vị vua tài giỏi
khiến cho kẻ ngoại xâm phải e dè và đem lại những thành quả tốt đẹp trong việc
xây dựng đất nước.
4- Con cháu của vua Lê Đại Hành không được đào luyện trong quân ngũ
và trong chiến trận nên thiếu khả năng cầm đầu đất nước lại ham tranh giành
ngôi vua và sắc dục (Lê Trung Tông, Lê Long Đỉnh). Những người giúp rập giỏi
như tướng Đào Cam Mộc cũng như sư Vạn Hạnh nhận thấy cần phải thay đổi vì dân
chúng và quân sĩ oán hận sự tàn ác và ăn chơi vô độ của Lê Long Đỉnh. Các vị ấy
cùng triều thần đã ủng hộ Điện Tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn 李公蘊 lên làm vua hiệu là Lý Thái Tổ; nhà vua đã thấy ngay việc
đầu tiên là phải dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Thăng Long vì thuận tiện việc đi
lại, đất đai bằng phẳng và rộng hơn cho việc xây dựng thành trì.... Triều nhà
Lý với những vị vua như Lý Thái Tổ (1010-1028), Lý Thái Tông (1028-1054), Lý
Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1127) cầm nắm vận mệnh đất nước
trong các thời gian trị vì đều là những vị vua không những sáng suốt, nhân đức
mà lại còn giỏi võ bị quen trận mạc cũng như chú tâm chăm lo việc sửa sang nội
trị như luật lệ, thủy lợi, mở Quốc Tử Giám để thi cử chọn hiền tài giúp nước,
định quan chế, phân định tổ chức quân binh, học tập binh pháp.. v. v... Đồng
thời các quan đại thần trong triều như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lý Thường
Kiệt, Tôn Đản, Lê Văn Thịnh, Tô Hiến Thành... v. v.. là những người tài giỏi,
lo giúp vua gìn giữ xã tắc chống giặc Tống vẫn hay dòm ngó hoặc quân Chiêm
Thành cũng như các tộc vùng biên giới sát Lào vẫn thường quấy phá. Vua Lý Thánh
Tông cũng đổi tên nước Đại Cồ Việt thành Đại Việt 大越 cho uy nghiêm, văn vẻ và gọn gàng hơn, ông là một vị vua
anh minh, thương dân, lo mở mang việc học nhưng lấy khuôn mẫu từ lối học hành
của các triều đình phương Bắc. Tuy nhiên điểm nổi bật của các vua nhà Lý thời
kỳ đầu là biết giữ gìn sự độc lập và tự chủ của đất nước bằng việc rèn luyện
sức mạnh quân sự kinh qua việc "phá Tống, bình Chiêm". Trước đây, khi
chưa dành lại được quyền tự chủ đất nước, chuyện đem quân qua nước cai trị mình
đánh lại họ là chuyện không thể nào có được. Nhưng với các vị vua như Lê Đại
Hành đã đánh bại quân Tống, nhất là Lý Nhân Tông đã cho quân do Lý Thường Kiệt
và Tôn Đản cầm đầu tiến đánh Liêm Châu, Khâm Châu (Quảng Đông) và Ung Châu
(Quảng Tây) của nhà Tống. Ngoài chuyện bị lệ thuộc phương Bắc, đất nước ta cũng
thường xuyên bị quân Chiêm Thành sang cướp phá. Một ngàn năm Bắc thuộc là kèm
thêm không biết bao nhiêu lần quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) tiến đánh Giao Châu.
Nhưng từ đây khi các vua Tiền Lê, Hậu Lý... vững mạnh đã dẹp yên chuyện quấy
nhiễu, cướp bóc này. Trang sử thời kỳ tự chủ mở ra với những đợt bình định
phương Nam của vua Lê Đại Hành, vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông không
những dẹp yên phía nam mà lại mở rộng đất đai do Chiêm Thành dâng nạp như châu
Địa Lý, châu Ma Linh, châu Bố Chánh (từ Nghệ An xuống đến Hà Tĩnh, Quảng Bình).
Nhưng rồi, quân Chiêm Thành các thời kỳ về sau vẫn cứ thường xuyên sang quấy
phá nước ta. Một ngàn năm nước ta bị Bắc thuộc, nhưng trong một ngàn
năm đó, nước ta lại phải chịu không biết bao nhiêu sự cướp phá của quân Lâm Ấp
phía nam hay Nam Chiếu phía tây gây thiệt hai tính mạng và tài sản của dân ta
rất lớn. Gây nhân nào là phải gặt quả nấy ! Cho nên, khi nước ta dành lại
quyền tự chủ, vua quan giỏi giang, binh lực vững vàng đã tiến đánh Chiêm Thành
liên tục trong thời Tiền Lê, thời Hậu Lý để tiêu trừ đi việc thường xuyên quân
Chiêm Thành sang quấy phá nước ta. Thời Trần Duệ Tông (1372), Chiêm Thành lại
sang quấy nhiễu khiến Duệ Tông đích thân chinh phạt và bị tử trận. Năm 1378 đời
vua Trần Phế Đế, nước ta suy nhược, Chế Bồng Nga của Chiêm Thành đem đại quân
tiến đánh Thăng Long. Về sau, nhà Hậu Lê dưới thời vua Lê Nhân Tông (1443), Lê
Thánh Tông (1470) do sự quấy phá của họ đã tiến đánh Đồ Bàn và vua Lê Thánh
Tông năm 1470 đã tiến đánh chiếm hẳn Chiêm Thành lập ra đạo Quảng Nam. Điều đó
cho thấy Lâm Ấp rồi Chiêm Thành đã gây ra biết bao thiệt hại cho nước ta
suốt cả ngàn năm Bắc thuộc và kéo dài đến cả thời Hậu Lê nên cuối cùng phải trả
giá!
Chuyện nội trị cũng cho thấy những khả năng nhiều mặt của các vị vua thời kỳ
này trong công cuộc làm chủ đất nước. Thời nhà Lý những vị vua không những giỏi
võ bị mà lại thấm nhuần đạo Phật, hiểu biết việc nội trị nên đã xem việc tổ
chức mở trường dạy học hay thi cử chọn hiền tài, phát triển văn học là cần
thiết. Đó là một trong những điểm son của thời kỳ nền tự chủ đất nước đã có nề
nếp hơn trước. Chuyện học hỏi việc tổ chức triều đình cùng nhiều vấn đề sửa sang
việc nước, các vua thời kỳ này phải học hỏi Trung Hoa. Học hỏi vì mình chưa có
bề dày lịch sử làm chủ đất nước nên rất cần những kinh nghiệm của họ. Đó là quá
trình tất yếu phải đi qua. Với 1000 năm Bắc thuộc rồi phải học hỏi phương Bắc
việc sửa sang đất nước, các vua nước ta vẫn giữ được tinh thần độc lập và tự
chủ. Sử gia Trần Trọng Kim đã nhận xét về thời kỳ Bắc thuộc này :" Châu ta
có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn
với nước Tàu... "(VNSL, sđd, tr. 79). Hơn thế nữa, thế giới quan
thời các vua Tiền Lê hay Hậu Lý chỉ có một hướng chính là nhìn lên phía Bắc để
học hỏi vì có còn nước nào khác bấy giờ gần gũi và có nhiều điều để học tập cho
việc trị nước ngoài Trung Hoa lâu đời đâu ! Và chúng ta cũng nên thấy
rằng lịch sử Trung Hoa có bề dày khá dài, không tính các đời vua huyền sử như
Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn (khoảng 2852-2205 TCN), những triều
đại đầu tiên của họ như nhà Hạ, nhà Thương Ân, nhà Chu đã trải qua một thời
gian khá dài (khoảng 2205-1078 TCN). Từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc cho đến đời
Tần (770- 221 TCN), chúng ta thấy các triều đại của phương Bắc đã thành hình
trước khi có triều đại Văn Lang (khoảng 258 TCN) khoảng 2600 năm ròng rã !
Trung Hoa thực sự đã có một nền văn minh lâu đời nên khi dành được quyền tự
chủ, các vua thuở đầu của nước ta phải chấp nhận học những điều cần thiết để
trị nước. Cũng chính vì học nhưng " không chịu lẫn với Tàu "(T. T. K)
nên mới không bị sức mạnh và nền văn minh của họ đồng hóa và vẫn giữ được bản
sắc riêng. Dĩ nhiên, tuy có lựa chọn, gạn lọc nhưng khi học hỏi việc trị nước
vẫn có những ảnh hưởng không cần thiết, không thích hợp vẫn bị du nhập từ Trung
Hoa làm cho đất nước đôi khi "như một bản sao" mặt này mặt kia
về tư tưởng, học thuật, văn hóa, tôn giáo, chính trị, hành chính, binh bị với
nhiều chỗ rập khuôn Trung Hoa.
o0o
Nhìn chung, chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền là nguồn cảm hứng to
lớn của thời đại tự chủ và công lao "Phá Tống, Bình Chiêm" của Lê
Hoàn là một sự khởi đầu tốt đẹp làm nền tảng cho các triều đình như các thời
Lý, thời Trần, thời Hậu Lê hay Nguyễn Tây Sơn sau này học hỏi tinh thần tự chủ
và bảo vệ đất nước. Một nước Nam đã đứng lên vững vàng trải qua những cơn sóng
lớn với khả năng tiến đánh miền nam nước Tống, bình định Chiêm Thành và mở rộng
cương vực về phía nam của các vua nhà Lý. Một nước Nam với vua tôi nhà Trần
kiên cường đã ba lần phá tan quân xâm lược Mông Cổ mạnh nhất thế giới thời đó
của Thành Cát Tư Hãn. Một nước Nam bền bĩ oai hùng với Lê Lợi cùng quần thần
mưu trí tài giỏi đã đánh tan quân xâm lược tàn ác của Minh Thành Tổ Chu Đệ cùng
những mưu đồ hủy diệt và xóa sổ các thành tựu mọi mặt của nước Nam trong đó có
những di sản văn học, văn hóa còn ít ỏi của nước ta. Một Quang Trung hoàng đế
của nhà Nguyễn Tây Sơn lẫm liệt phá tan chớp nhoáng quân Thanh xâm lược... v.v... Tinh thần yêu nước và bảo vệ nền tự chủ của các anh hùng qua những giai
đoạn này thật to lớn để đất nước được tồn tại. Nhưng ngày nay trước sự mất còn
của đất nước, trước kẻ thù phương Bắc quá lớn mạnh đòi hỏi đất nước cần có
những con người yêu nước đích thực biết đặt quyền lợi dân tộc và đất nước lên
trên hết, dám xả thân vì sự tồn vong của dân tộc và nhất là đủ khôn ngoan để xây
dựng một đất nước hùng mạnh có khả năng ngăn chặn sự bành trướng mọi mặt của kẻ
thù truyền kiếp. Quả thật đây là một công việc rất đỗi khó khăn mà chỉ có sự
hòa hợp dân tộc cùng chung lòng mới mong đoàn kết và xây dựng sức mạnh đối phó
với phương Bắc. Hơn 2000 năm sau, vẫn với cách thức đồng hóa như thế đi kèm với
việc mang danh nghĩa là đầu tư kinh tế, phương Bắc lại tìm đủ mọi cách để vào
nước ta. Với số thặng dư 12, 2 ngàn tỷ đô la Mỹ, [Từ 1978 đến 2018, Tổng Sản
phẩm Quốc nội (GDP) của Trung Quốc tăng từ 150 tỷ đô la lên 12, 2 ngàn tỷ đô la
(dữ liệu của Liên hiệp quốc)-BBC Tiếng Việt ngày 20/12/2018 ] cộng thêm việc sử
dụng biện pháp quân sự răn đe, ngoại giao, hăm dọa, đút lót... v.v..., phương
pháp xâm chiếm kiểu tằm ăn dâu của họ từng bước đe dọa sự tồn vong của dân tộc
chúng ta. Những sự tìm hiểu về chuyện con lai người Hoa rơi rớt qua các dự án
lớn nhỏ, việc mua nhà cửa đất đai, việc chi phối về mặt chính trị, việc dùng vũ
lực để chiếm biển đảo... v.v... là một chuỗi những sự kiện đi theo con đường
đồng hóa có từ xưa nhưng trong những hình thức mới hơn mà thôi. Nếu thuật từ
"chủ nghĩa thực dân mới" từng được Bắc Việt và Bắc Kinh sử dụng để
nói về việc Mỹ can thiệp vào miền Nam thời chiến tranh vừa qua thì bây giờ
phương Bắc đang dùng nó cho con đường "trỗi dậy" đầy mưu mô gian trá
của họ. Những gì họ nói kẻ khác bây giờ họ lại sử dụng triệt để hơn thâm độc
hơn, tinh vi hơn và cũng tàn bạo hơn (6). "Con đường tơ lụa" là một
bẫy nợ sẽ khiến quốc gia nào dính dáng đến TQ và lệ thuộc vào họ .Đó là một kiểu
thực dân mới hơn hẳn các kiểu cũ rất nhiều ! Còn một phương án nữa là chính
hàng ngũ lãnh đạo Trung Hoa phải thay đổi đi theo con đường "hữu
đạo", đi đầu trong việc gìn giữ nền hòa bình cho nhân loại, đề cao
"chủ nghĩa "chung sống hòa bình", trả lại tự do và độc lập cho
đất nước Tây Tạng, trả lại đất đai và tự do cho người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương,
tôn trọng sự chọn lựa dân chủ độc lập của Đài Loan, trả lại biển đảo đã cưỡng
chiếm và đất đai biên giới của nước ta... v.v... Được như vậy, thế giới sẽ nhìn
Trung Hoa thân thiện hơn, một Trung Hoa đàng hoàng tử tế sẽ xứng đáng với nền
văn minh khá sớm ở nhiều mặt của họ từng được xem là một trong những cái nôi
của nền văn minh nhân loại . Ngược lại ,nhân loại sẽ xem họ là một trong những
quốc gia lấy CÁI ÁC để hành xử và họ sẽ là hiểm họa của thế
giới này. Cho nên,dầu Trung Hoa có một nền văn minh từ xưa rất phong phú nhưng
cứ nhìn cách họ đang hành xử hiện nay thì nền văn minh đó nhất là về mặt học
thuật sẽ bị nhiều quốc gia xa lánh!
Chú thích:
(1)- Gs Kim Định tên thật Lương Kim Định(1915-1997) là giáo sư triết học Đông
Phương của ĐHVK Saigon, Viện ĐH Dalat, Viện ĐH Vạn Hạnh từ 1958 với chủ trương
triết lý Việt Nho và An Vi (xem thêm chi tiết trên TL tham khảo trên
Wikipedia).
(2)- Thi thư chữ dùng của ĐVSKTT chỉ Lục Kinh : gồm Kinh Thi 詩經,
Kinh Thư 書經, Kinh Lễ 禮經, Kinh Dịch易經, Kinh Nhạc樂經, Kinh Xuân Thu春秋經. (Về sau, thời Tần Thủy Hoàng cho
đốt sách, chôn nho nên khi phục hồi, Kinh Nhạc chỉ còn ít ỏi, phải ghép chung
với Kinh Lễ nên gọi là Ngũ Kinh五經 là năm cuốn sách căn bản của Nho giáo). Ngoài ra "thi
thư" cũng chỉ "Tứ Thư" (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử
), là bốn cuốn nền tảng dạy đạo nghĩa của Nho giáo. Chín cuốn sách này vẫn
thường được gọi là "thi thư".
(3)- Gs Lê Mạnh Thát : tức thiền sư Thích Trí Siêu là Gs Viện Đại học Vạn Hạnh,
Sài Gòn, giảng dạy các môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử
Phật giáo Việt Nam; 1975-1984: Giảng dạy tại Viện nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh
tại Sài Gòn. Từ 1998 đến nay, thầy Thích Trí Siêu là Giáo sư, Phó Viện trưởng
rồi Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật giáo Việt Nam tại Sài Gòn (xem thêm chi
tiết trên BKTT Wikipedia)
(4)- Các vua Trung Hoa thường phong cho viên tướng đi ra biên tái đánh dẹp các
bộ tộc bên ngoài là Phục Ba tướng quân伏波 將軍 (nghĩa là tướng quân đi hàng phục
những cơn sóng gió) như Lộ Bác Đức thời Hán Vũ đế nhà Tây Hán sang đánh nhà
Triệu (111 TCN) và Mã Viện thời Hán Quang Vũ đế thời Đông Hán sang đánh dẹp Hai
Bà Trưng (41 SCN).
(5)- Cours d'histoire annamite à l'usage des écoles de la Basse-Cochinchine,
Impr. du Gouvernement, Saigon, 1875, tr. 13, Theo tài liệu tác giả bài viết
Nguyễn Quang Duy lược dịch gửi đài BBC ngày 6/12/2018 nhan đề : Trương Vĩnh Ký
- Nhà giáo dục yêu nước Việt Nam.
(6)- Wikipedia :Chủ nghĩa thực dân mới là thuật ngữ chỉ việc sử dụng chủ
nghĩa tư bản, toàn cầu hóa và các công cụ văn hóa để kiểm soát một quốc gia
(thường là cựu thuộc địa của các cường quốc châu Âu ở châu Phi hoặc châu Á)
thay vì kiểm soát trực tiếp quân sự hoặc chính trị. Việc kiểm soát có thể thông
qua kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ; bằng cách thúc đẩy nền văn hóa riêng của một
nhóm người, ngôn ngữ hoặc các phương tiện truyền thông ở thuộc địa, làm lan
tràn các giá trị văn hóa kiểu phương Tây vốn xa lạ (thậm chí độc hại) vào các
nước này. Các tập đoàn đa quốc gia thông qua những tác động này sẽ tạo sức ép
mở cửa thị trường và thực thi các chính sách có lợi cho họ ở những quốc gia
này. Như vậy, mục tiêu cuối cùng của Chủ nghĩa thực dân mới cũng tương tự như
chủ nghĩa tư bản, chính là lợi nhuận......
Tài liệu tham khảo (TT):
14/ Trần Trọng Kim, Nho Giáo (quyển Thượng & quyển Hạ), Bộ Giáo Dục &
Trung tâm Học Liệu XB, Sài Gòn 1971.
15/ Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, NXB Lá Bối, 1973
16/ Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (Tập 1, Từ khởi nguyên đến thời Lý
Nam đế), NXB Thuận Hóa, Huế 1999.
17/ Kim Định, Vấn Đề Quốc Học, NXB Nguồn Sáng, Saigon 1971
18/ Lê Tắc, An Nam Chí Lược, NXB Hồng Đức, Hà Nội 2016
19/ David Shambaugh, Tương lai Trung Quốc, Nguyễn Đình Huỳnh dịch, NXB Hội Nhà
Văn, Hà Nội, 2016
20/ Nguyễn Hiến Lê ,Sử Trung
Quốc ,NXB TH , Saigon 2017
Các Trang Web tham khảo (TK) :
10/ www. chungta. com › Tư liệu nguồn & tra cứu : Văn Lang thời Hùng
Vương đã từng có chữ viết riêng?
11/ Nguyễn Quang Duy (Melbourne, Aus), Trương Vĩnh Ký- Nhà giáo dục yêu
nước Việt Nam, BBC, 6/12/2018.
(xem tiếp phần 4: Tội ác của nhà
Minh Trung Hoa và chính sách đồng hóa triệt để khi xâm lược nước ta
1407-1427)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét