Tạm Chuyển Lục Bát:
CẢM HỨNG LAN MAN (Bài 2)
Dời chân không rễ như
bồng,
Rỗng không một túi theo dòng bắc nam.
Văn chương cùng quẫn trăm năm,
Tấm thân sáu thước lang thang đất trời.
Mũ vàng muôn dặm chiều rồi,
Một đầu tóc bạc tơi bời gió tây,
Đau lòng lắm nỗi xưa nay,
Hồng nghiêng bóng xế vẫn bày núi xanh.
Dịch Nghĩa:
Bước chân dời đi không
bén rễ như những ngọn bồng (gió cuốn) đẩy đưa. Một chiếc túi rỗng dời chuyển
hết bến sông phía bắc lại bờ sông phía nam. Đời người một trăm năm chết cùng
quẫn với chuyện văn chương; tấm thân sáu thước trôi nổi lang thang giữa trời
đất. Muôn dặm đường đội chiếc mũ màu vàng cùng với cảnh trời chiều. Một
mái đầu bạc trắng bị thổi tung bởi làn gió phía tây. Chuyện xưa, chuyện nay gợi
lên bao nỗi đau xót tột cùng. Chỉ có dãy núi xanh nhuốm ánh nắng chiều hôm
nghiêng nghiêng màu hồng là vẫn y như cũ tự thủa nào.
Chú Thích:
- hành cước 行 腳: đi bộ, đi bằng đôi
chân.
- chuyển 轉: di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, dời đi.
- bồng 蓬:
tên loại cỏ rất nhẹ dễ bị cuốn đi theo gió, thường để chỉ sự không ổn định,
trôi nổi theo sự đưa đẩy của dòng sống.
- cùng tử 窮 死: chết trong cảnh khốn quẫn.
- hoàng quan 黃 冠: chiếc mũ vàng của các đạo sĩ hoặc sư tăng. Đây chỉ việc sống
ẩn dật.
- tản 散:
không tự kiềm giữ được, rảnh rang, nhàn rỗi.
- y cựu 依 舊: y như cũ, y như thuở nào.
- tịch chiếu 照 紅: ánh nắng buổi chiều tối có bóng nghiêng.
Bài 9
TẠP NGÂM
雜 吟
Đạp biến thiên nha hựu
hải nha, 踏遍天涯又海涯
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
乾坤隨在即為家
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm, 平生不起蒼蠅念
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghị oa. 今古誰同白蟻窩
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm, 寥落壯心虛短劍
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca. 蕭條旅悶對時歌
Bế môn bất ký xuân thâm thiển, 閉門不記春深淺
Đãn kiến đường lê lạc tận hoa. 但見棠藜落盡花
Nguyễn Du
阮 攸
Tạm chuyển Lục Bát:
TẠP NGÂM
Đạp chân góc biển chân trời,
Đất trời tùy chốn khắp nơi là nhà.
Thường không nghĩ chuyện xấu xa,
Xưa nay hang mối ai là người chung?
Vắng tanh kiếm ngắn chí cùn,
Trọ xa quạnh quẽ sánh buồn bài ca.
Cửa cài chẳng nhớ xuân qua,
Đường lê chỉ thấy rụng hoa hết rồi.
Dịch Nghĩa:
Chân đạp khắp nơi, hết
chân trời góc biển. Tùy nơi, trời đất đều là nhà cả ! Vẫn thường không dấy lên
những ý nghĩ (xấu xa) của loài nhặng xanh. Xưa nay ai là loài cùng chung hang ổ
với loài mối trắng đây? Ở nơi vắng vẻ, tấm lòng mạnh mẽ cũng cùn nhụt như thanh
kiếm ngắn thôi. Chốn trọ xa quạnh quẽ, vắng lặng và nỗi buồn phiền như
sánh đôi với bài hát bây giờ. Cửa nhà đóng chặt chẳng nhớ gì mùa xuân còn dài
lâu hay chóng qua. Chỉ nhìn thấy cây đường lê đã rụng rơi hết bông hoa rồi.
Chú Thích:
- tạp ngâm 雜 吟: ngâm bài thơ hay
đoạn thơ bất chợt, lẻ tẻ, lặt vặt.
- thiên nha hải nha 天 涯 海 涯 : chân trời góc biển, chỉ những nơi rất xa xôi tận cùng.
- tùy tại 隨 在: tùy theo mỗi nơi, tùy chỗ.
- bình sinh 平 生: cuộc đời bình thường, suốt cuộc đời, xưa đến nay.
- thương dăng 蒼 蠅 : những ruồi xanh, nhặng xanh thường hay đến nơi tanh tao, hôi
hám. Thương dăng niệm: ý nghĩ tanh tao, xấu xa như loài
ruồi nhặng.
- bạch nghi oa 白 蟻 窩: hang ổ (oa) của loài mối trắng. Chỉ sự đục khoét, gặm nhắm
nhanh chóng. Câu 4: Nguyễn Du có lẽ cho rằng mình chẳng thể nào cùng chung với
bọn sâu dân, mọt nước được.
- liêu lạc 寥 落: thưa thớt, vắng lặng.
- tráng tâm 壯 心: ý chí mạnh mẽ nơi con người muốn vươn lên.
- hư đoản kiếm 虛 短 劍: cây kiếm ngắn hư hao, cùn nhụt.
- tiêu điều 蕭 條: quạnh vắng, buồn bã.
- đường lê 棠 藜: loại cây gỗ rắn mà dẻo dùng làm gậy chống.
Bài 10
KHẤT THỰC
乞 食
Tằng lăng trường kiếm
ỷ thanh thiên, 嶒崚長劍倚青天
Triển chuyển nê đồ tam thập niên. 輾轉泥塗三十年
Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
文字何曾為我用
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
饑寒不覺受人憐
。。。
。。。
Nguyễn Du
阮 攸
Tạm Chuyển Lục Bát:
ĂN XIN
Tựa gươm: cao ngất trời
xanh,
Ba mươi năm đã lăn quanh vũng bùn.
Ta dùng gì được văn chương?
Để khi đói lạnh người thương chẳng ngờ!
。。。
Dịch Nghĩa:
Tựa vào thanh kiếm
dài, (nhìn) trời cao ngất ngưỡng chót vót. Đã ba mươi năm lăn lộn trong vũng
bùn dơ bẩn. Văn chương chữ nghĩa nào dùng được gì cho ta đâu? Có ngờ đâu lúc
đói rét phải chịu nhận lòng thương của người …..
Chú Thích:
* Đây là bài thơ
đã mất đi 4 câu của Nguyễn Du. Cho đến nay vẫn chưa có tư liệu nào đề cập về 4
câu còn lại của bài thơ này.
- tằng lăng 嶒 崚: có khi viết đảo lại là “lăng tằng” chỉ ngọn núi cao chất ngất,
cao vút; cũng có khi mượn để chỉ sự ngạo nghễ, kiêu hãnh cao ngút trời.
- ỷ 倚
: dựa vào.
- triển chuyển 輾 轉: lăn qua lộn lại, trằn trọc không ngủ được.
- nê đồ 泥 塗: đất bùn tanh dơ.
- bất giác 不 覺: bất chợt, chẳng ngờ, không ngờ.
- liên 憐: thương xót ,yêu ,tiếc...
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét