Đã 46 năm kể từ khi
chiến tranh VN kết thúc. Thời gian dài gần bằng hai thế hệ.
Người cộng sản luôn tự
hào là họ đã kết thúc được cuộc chiến, thống nhất được đất nước! Cứ mỗi dịp này
báo chí nhà nước ở VN lại chạy hết công suất để nhắc lại những "chiến
công" lừng lẫy trong "cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng
miền Nam"… còn bên kia ở hải ngoại nhắc lại những nỗi đau của "tháng
Tư đen".
Chỉ vài năm gần đây,
những cụm từ như "chế độ ngụy, tay sai bán nước" một thời thường được
"bên thắng cuộc" dùng để nói đến chế độ VNCH cũ đã bớt đi, một số bài
viết cũng khéo léo dùng chữ "mừng ngày thống nhất đất nước" hơn là
"mừng ngày chiến thắng"
Ngược lại, theo thời
gian ngôn từ căm hận trong những bài viết của "bên thua cuộc" cũng
nhẹ bớt. Nhưng tôi thấy vẫn còn đó nỗi đau, sự tiếc nuối cho một chữ
"nếu" của lịch sử trớ trêu.
Cùng với nỗi đau chung
cho đất nước là nỗi đau về những mất mát riêng của từng cá nhân, từng gia đình
khi một biến cố lịch sử ập đến, đã làm đổi thay bao nhiêu số phận.
Có cả những câu chuyện
của những người thuộc phe chiến thắng nhưng cũng ẩn chứa những nỗi đau khác, có
người ngay sau ngày tiếng súng vừa tắt, đã ngồi bên vệ đường Sài Gòn để khóc vì
biết mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời tuổi trẻ để đi "giải
phóng" một quốc gia tự do, nhân bản, văn minh, phồn thịnh hơn quốc gia nơi
mình sinh ra và lớn lên, có người nhiều năm sau mới ngậm ngùi nhận ra mặt trái
của tấm huân chương…
Cuộc đời của mỗi con
người, mỗi gia đình Việt Nam tự nó đã là một cuốn sách, một bộ phim, qua đó
người ta có thể hình dung được một phần bức tranh của dân tộc và nếu chỉ cần
kể lại một cách trung thực, thì rất nhiều cuộc đời đó còn chân thực hơn gấp bao
nhiêu lần những cuốn sách, bộ phim, của người Mỹ hay của người Việt, đã viết,
đã thực hiện, về Chiến tranh Việt Nam.
Cũng như bao nhiêu gia
đình người Việt khác, gia đình họ hàng tôi có cả hai phe Nam - Bắc và cuộc
sống đã hoàn toàn thay đổi theo chiều ngược nhau sau 30/04.
Sự ly tán đã có trong
thời chiến, thời hậu chiến gặp lại nhau, không ai bảo ai nhưng có một chủ đề
chung đều muốn né tránh là chuyện chính trị, chuyện chiến tranh. Họ hàng thì
vẫn là họ hàng, một giọt máu đào hơn ao nước lã, nhưng quan điểm chính trị
chẳng phải lúc nào cũng đồng thuận, trong một dòng họ đã như thế, nói gì giữa
nhà cầm quyền với người dân.
Rồi hàng chục năm sau,
họ hàng tôi lại tiếp tục ly tán, quê hương không còn là nơi đất lành chim đậu
nên nhiều người phải bỏ nước ra đi, tản mác khắp bốn phương trời. Nhưng dù đã
là công dân của nước khác, đa số người Việt vẫn đau đáu chuyện quê nhà, thì giờ
dành để theo dõi, vui buồn theo từng biến cố ở VN nhiều hơn dành cho những sự
kiện ở quê hương thứ hai.
- Vì sao không quên
được quá khứ?
Chỉ có thế hệ trẻ như
con gái tôi, rời nước khi còn ở tuổi thiếu niên, hay những bạn trẻ sinh ra ở
nước ngoài là không quan tâm bao nhiêu tới VN, và không hiểu nổi tại sao người
Việt không thể quên?
Đó cũng là câu hỏi của
rất nhiều người, rằng tại sao người Việt, ở cả hai phe, cứ luôn nhắc hoài về
quá khứ? Sao không bỏ qua, cùng nhau nhìn về phía trước để xây dựng đất nước?
Tại sao 40, 42, rồi 46 năm trôi qua nhưng hàng chục triệu người Việt, dù có
dính líu trực tiếp đến cuộc chiến hay không, vẫn không thể bình an, thậm chí
như một nhà thơ từng nói, là bị hội chứng PTSD (post-traumatic stress
disorder)?
Câu trả lời thật ra
rất đơn giản. Nếu sau chừng ấy năm, Đảng Cộng sản làm cho đất nước trở nên giàu
mạnh, bảo vệ được chủ quyền trọn vẹn về lãnh thổ lãnh hải, người dân thực sự
được sống trong một xã hội tự do, dân chủ, nhân bản, tiến bộ, Việt Nam có vị
thế của mình trên thế giới, thì vết thương của cuộc chiến tranh đã qua, dẫu có
tàn nhẫn đến đâu, cũng sẽ tự lành. Cả dân tộc sẽ khép lại quá khứ, chấp nhận
thực tại và hào hứng hướng về tương lai. Chính vì đảng cộng sản không làm được
như vậy, thậm chí ngược lại, nên nỗi đau vẫn cứ còn mãi, thời gian càng lùi xa,
càng đau…
Đẩy nhân dân vào cuộc
chiến tương tàn vì lý tưởng XHCH nhưng sau đó Đảng Cộng sản đã phản bội lại
chính những lý tưởng, học thuyết, mô hình thể chế chính trị mà họ từng mù quáng
tin và bắt nhân dân phải tin theo. Họ đã phản bội lại hàng triệu người dân miền
Bắc, trong đó có những người ngã xuống vì tin vào "cuộc chiến tranh thần
thánh chống Mỹ, giải phóng miền Nam", cho một tương lai tốt đẹp hơn! Tất
cả những gì họ đã từng hô hào chống lại trước kia giờ đây họ lại làm theo,
nhưng tồi tệ hơn!
Không biết cần bao
nhiêu thời gian để phục hồi, xây dựng lại là sự tàn phá về thiên nhiên-môi
trường, về văn hóa, đạo đức xã hội, và về nhân cách, khí chất, lòng tự tôn của
một dân tộc?
ĐCSVN đã bỏ qua rất
nhiều cơ hội "vàng" để hòa giải hòa hợp thực sự với bên thua trận,
với nhân dân, và để chuyển hóa thành một thể chế dân chủ đa đảng, hội nhập với
xu hướng tiến bộ chung của thế giới.
Nghiêm trọng nhất là
mối quan hệ bất xứng, thiệt thòi và nguy hiểm cho độc lập dân tộc của VN
giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam-Trung cộng trong suốt một thời gian dài, khiến
Việt Nam phải liên tiếp trải qua hai cuộc chiến tranh khác là chiến tranh biên
giới phía Bắc, chiến tranh biên giới Tây Nam, mất đảo, lãnh thổ, lãnh hải, phụ
thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị, và luôn luôn đứng trước nguy cơ hiểm họa
bành trướng của Trung cộng.
Tất cả những điều đó
đã làm cho nỗi đau tháng Tư vẫn không thể nguôi vơi trong lòng rất nhiều người
dân Việt Nam như tôi.
Nhưng không thể cứ
nhìn mãi về quá khứ, về những sai lầm, những cơ hội đã bị bỏ lỡ.
Một lần nữa, như một
sự trớ trêu của lịch sử, Việt Nam lại nằm trong khu vực sẽ trở nên sôi động
nhất, "nóng" nhất trong tương lai gần, với sự đối đầu giữa hai phe,
một bên là Hoa Kỳ và các nước đồng minh, bên kia là Trung cộng vừa bắt tay với
Nga, và có thể có thêm Iran, Bắc Hàn, cùng cạnh tranh khốc liệt để giành ảnh
hưởng, vị trí trên toàn cầu.
Nhìn lại thời kỳ chiến
tranh lạnh giữa hai phe tư bản-cộng sản, Việt Nam có học được bài học lịch sử
để một lần nữa, không trở thành con tốt trên bàn cờ chính trị thế giới, hoặc lẻ
loi đơn độc và cuối cùng buộc phải ngả vào sự kiềm tỏa của phe Trung-Nga, liệu
có là câu hỏi chỉ dành riêng cho nhà cầm quyền, hay cho tất cả người dân?
Từ giữa thập niên
1970, thế giới đã chứng kiến làn sóng thứ ba của quá trình dân chủ hóa lần đầu
tiên diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Ban Nha, rồi một số quốc gia trong khu vực
Đông Á, Đông Nam Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, ở Trung Âu và
Đông Âu là những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đã làm sụp
đổ cả khối XHCN cũ.
Sống ở châu Âu nhưng
tôi vẫn nhận thấy thật rõ thời gian gần đây một số quốc gia Á Đông tiếp tục
có những chuyển động giữa một bầu không khí đang nóng lên trong toàn khu vực.
Người dân Thái Lan đã đứng lên biểu tình chống lại chính phủ hiện tại và yêu cầu
cải cách chế độ quân chủ, người dân Myanmar đang đổ máu từng ngày để đòi lại
nền dân chủ non trẻ vừa bị quân đội thực hiện đảo chính và có nguy cơ trở lại
với chế độ độc tài quân phiệt. Nhiều người đã bắt đầu nói đến một làn sóng dân
chủ thứ tư sắp đến.
Chỉ có Việt Nam dường
như vẫn đứng ngoài mọi biến động. Điều đáng buồn là người Việt, vốn đã chia rẽ
vì nguyên nhân lịch sử, mấy năm vừa qua lại thêm chia rẽ vì bất đồng quan điểm
khi nhận định về chính trị Mỹ, cộng với sự đàn áp ngày càng hà khắc của công an
Việt Nam, khiến những tiếng nói đối lập, những hành vi phản kháng gần như chìm
lắng hẳn.
Mỗi thế hệ suy cho
cùng cũng chỉ có thể chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong thời của mình.
Làm sao để Việt Nam không tiếp tục chịu số phận đi sai đường và thường xuyên
bị nhỡ tàu, mà có thể hội nhập với thế giới tự do, để mai này đất nước, con
người Việt Nam được "giải phóng" khỏi mọi sự kìm hãm và phát triển
hết mức có thể; làm sao để 5, 10 năm nữa người Việt có thể thanh thản khi nhìn
lại những trang sử cũ, là trách nhiệm của thế hệ hôm nay.
Song Chi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét