Rảnh nên tôi tạt ngang qua Manila vài
bữa, dù chả hẹn hò hay quen biết với bất cứ ai ở hải đảo này. Cứ cách ngày tôi
đổi khách sạn một lần, và mỗi lần lại chuyển qua một quận hạt khác (Makati, Malabon, Parañaque) thế mà nguyên tuần không gặp được một người đồng
hương nào ráo.
Rời thủ đô của Philippines, điều tôi nhớ nhất là bữa ăn cuối
cùng ở Oyster Plaza Hotel. Khách sạn bình dân, tuy cũng có cả bar rượu với
restaurant nhưng lụp xụp trông đến tội. Thực khách vắng teo, thực đơn lèo tèo
chỉ hơn chục món với giá khá bèo. Vốn tính hà tiện nên tôi chỉ đại vào
món cá nướng chỉ vì… giá tiền thấp nhất.
Con cá nhỏ xíu xiu (rẻ là phải) được bọc kín trong giấy bạc, ướp
đủ thứ gia vị lạ mắt nhưng trông không hấp dẫn gì cho lắm. Tôi không hảo cá, và
cũng chả đói nên không đụng đũa. Cứ ngồi uống bia xuông cho đến khi thấy
hơi xót ruột, tôi mới ngần ngại xêu nhẹ một chút cá bỏ vào mồm.
Má ơi, sao mà nó ngon dữ vậy nè. Tôi gọi thêm chén cơm trắng
nữa. Lâu lắm rồi tôi mới có một bữa ăn chiều tử tế!
Ngoài ra, ấn tượng đậm nét hơn cả của tôi về Phi Luật Tân chỉ là
sự nghèo nàn của xứ sở này. Nhà cửa, đường xá, cầu cống, và mọi phương tiện
giao thông đều chật chội/ cũ kỹ/ tàn tạ ... ngó mà thương. Manila không thể nào
so sánh với Bangkok, chỉ ngang cỡ Rangoon, và có lẽ hơi đỡ nhếch nhác hơn Phnom
Penh với Vientiane chút xíu.
Dân Phi được tự trị từ 1935, hoàn toàn độc lập từ năm 1946. Hiến
pháp và chính phủ của xứ sở này được tổ chức theo khuôn mẫu Hoa Kỳ. Tam quyền
phân lập đàng hoàng. Người dân có tất tần tật mọi quyền tự do căn bản: cư trú,
di chuyển, ngôn luận, tín ngưỡng, sở hữu tài sản đất đai ...
Có thể đổ lỗi cho chế độ độc tài/ toàn trị/ quân phiệt về sự khốn khó ở Miên, ở Lào (hay ở Miến) nhưng giải thích sao về sự lam lũ ở Phi?
Nguyên cả tuần lễ mà
tôi không biết làm chi cho hết ngày ở Manila thì Chu Vĩnh Hải cũng có mặt nơi đây. Ông đến tham dự một
cuộc Hội Thảo Báo Chí, do Global Investigative Journalism Network tổ chức. Dân
chuyên nghiệp có khác. Tuy bận rộn nhưng nhà báo của chúng ta vẫn thực hiện
được một bài phóng sự (“Những Tao Ngộ Ở Manila”) đặc sắc, về nhóm dân Việt tị
nạn vẫn còn “kẹt” ở Phi. Xin ghi lại một trường hợp tiêu biểu:
Cách đây hàng chục
năm, chuyến tàu vượt biên của ông Huỳnh Phong đã mất phương hướng, máy tàu bị
hư hỏng, tàu bị trôi dạt vô định và hết sạch thức ăn nước uống. Nhiều người đã
chết, trong đó có trẻ em, phụ nữ và người già.
Và dĩ nhiên họ trở
thành những miếng mồi của lũ cá ở đại dương. Khi không thể chịu đựng đói khát
được nữa, người thuyền trưởng đã phải đưa ra một quyết định đau đớn: để tồn
tại, để đến được bến bờ, tất cả các thành viên còn sống sót trên tàu phải uống
máu và ăn thịt người có nguy cơ chết cao nhất.
Và phương thức lựa
chọn người chết là bốc số. Em trai của ông Huỳnh Phong là một trong số được
chọn. Ông Phong đã phải uống máu và ăn thịt chính người em ruột mà ông yêu quí
nhất. Và ông đã điên, đã quên đi gần như tất cả quá khứ.
Dễ có đến vài triệu
thuyền nhân (*) như ông Phong chứ đâu phải ít. Không kể những kẻ đã vùi thây
dưới lòng biển cả, người còn sống sót (đang tứ tán khắp bốn phương trời) tuy
không điên loạn nhưng cũng chả muốn ai nhắc nhớ chi đến cái phần đời bi thảm
của mình.
Với phần lớn dân Việt
tị nạn vẫn còn sống sót từ thế kỷ qua thì quên vẫn thường dễ chịu hơn
là nhớ, kể cả những kẻ đang cầm quyền ở đất nước này. Những dịch vụ “bán
bãi thu vàng” của người vuợt biên, tuy có mang lại lợi nhuận không nhỏ nhưng
lại không phải là kỳ tích kinh tế để họ có thể tự hào. Đó là lý do mà nhà nước
hiện hành vận động mọi phương thức ngoại giao để yêu cầu các nước Á Châu “đục bỏ bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân.”
Chối bỏ quá khứ, tuy
thế, không phải là phương cách tích cực để tiếp cận với hiện tại hay hướng đến
tương lai. Vết thương của những thuyền nhân vào cuối thế kỷ hai mươi vẫn chưa
kịp khép thì đầu thế kỷ này lại phát sinh ra những thuyền nhân mới. Tuy có
tên gọi là nouveaux boat people nhưng họ không di tản bằng đường thủy.
“Trong cuộc hành trình
dài bằng phần nửa vòng trái đất, họ thường bám trên các xe vận tải hạng nặng
xuyên qua Châu Âu. Trốn trong những thùng chứa hàng trong xe, họ phải ép xác,
có khi chịu đựng không ăn uống trong nhiều ngày. Khám xét những xe vận tải
đầy ắp hàng đi từ nước này qua nước khác làm cho cảnh sát biên phòng phải điên
đầu vì không phải là chuyện đơn giản lúc nào cũng làm đươc. Năm ngoái, hải quan
Pháp đã khám phá được mười mấy xác chết người Á Châu vì ngột ở trong xe hàng,
không biết có phải là Việt Nam không.” (Phương Vũ Võ Tam Anh, “Người Việt khốn khổ tại Paris” – 30 November 2009).
Đến nay thì đám “người
Việt khốn khổ” này không chỉ có mặt ở Paris. Họ đã xuất hiện khắp Âu Châu, với
một tên gọi khác (Người Rơm hoặc Truck People) và đã khiến cho công
luận bàng hoàng, sau cuộc phát hiện của cảnh sát nước Anh về 39 xác người chết
ngạt (trong một chiếc xe chở hàng đông lạnh) vào ngày 23 tháng 10 năm 2019.
Khi được phóng viên
báo Nhân Dân (số ra ngày 31 tháng 8 năm 1987) hỏi về bi kịch
thuyền nhân, Trung Tướng Nguyễn Đình Ước – Viện Trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự
Việt Nam) – đã trả lời gọn lỏn:
“Đó là chuyện có thật
… Đã có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi. Không ít người đã thiệt
mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa người vượt biên trái phép lừa gạt
giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh nhưng là hệ quả do những chính sách chống
phá Việt Nam từ bên ngoài.”
Thảm kịch của
đám truck people hiện nay cũng thế, cũng đến “từ bên ngoài.” Vụ này
nhà nước Việt Nam cũng tuyệt đối vô can, và hoàn toàn không có dính líu gì ráo
trọi. Báo Thanh Niên, số ra ngày 13 tháng 3 năm 2021, hớn hở cho hay:
Một người Việt bị cáo buộc là “người tổ chức” chính trong vụ
vận chuyển lậu người vào Anh khiến 39 nạn nhân Việt thiệt mạng hồi năm 2019.
Theo tờ Standard ngày 13.3 dẫn thông tin tại phiên điều trần dẫn độ tại Tòa sơ
thẩm Westminster (Anh), người Việt này tên Ngo Sy Tai, được cho là 18 tuổi, sẽ
phải đối mặt 20 năm tù nếu bị kết tội vận chuyển lậu người vào Anh.
Ngo Sy Tai đã chạy
trốn đến thủ đô Berlin (Đức) và sau đó đến thành phố Birmingham (Anh) sau khi
nhà chức trách phát hiện thi thể 39 nạn nhân Việt trong container tại Anh hồi
tháng 10.2019. Các nạn nhân đã trả tới 13.000 bảng (417 triệu đồng) mỗi người
cho chuyến đến Anh bằng “đường VIP”.
Tuy cũng thuộc “dạng”
thế lực thù địch bên ngoài nhưng thủ phạm lần này, may quá, có tên họ rõ ràng:
Ngô Sỹ Tài (18 tuổi) chính phạm trong những vụ chuyển lậu người vào anh vào
nước Anh, vào năm 2019, khi mới vừa… 16!
Thiệt là tài không đợi
tuổi!
Tin tức (thổ tả) như
thế mà cả làng báo Ta, lẫn báo Tây, đều vồ vập phổ biến tùm lu mà chả thấy ai
“thắc mắc hay khiếu nại” gì ráo trọi:
Judge orders Vietnamese teenager to be extradited over Essex migrant deaths
· Vietnamese teenager, 18, accused of being key 'organiser' in people
smuggling ring…
Ai cũng hân hoan vì đã
tìm ra một con dê để mang ra tế, dù chỉ là một chú dê con.
Chả hiểu hoàn cảnh của
cậu bé mười mấy tuổi đầu này ra sao mà thay vì sống với mẹ cha, và cùng bè bạn
ngồi dưới mái trường, lại lạc sang đến trời Âu; rồi trở thành một tay buôn
người xuyên quốc gia, với tầm vóc quốc tế, dữ dằn đến thế?
Em đúng là một thiên
tài, một sản phẩm đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, đến từ một đất nước chuyên
sản xuất ... thiên tai. Em đã “ứng” vào lời tiên đoán, cách đây không lâu, của
Bộ Trưởng Thông Tin Nguyễn Mạnh Hùng: “Tôi có niềm tin là người Việt Nam có thể
làm ra những thứ mà thế giới chưa từng làm.”
Tưởng Năng Tiến
(*) Death Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People
· Jacqueline Desbarats
and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The Washington
Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions.
This number is repeated in the Sept. 1985 Dept. of State
Bulletin article on Vietnam.
· Orange County
Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
· Northwest Asian
Weekly (5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners unaccounted for.
· Estimates for the
number of Boat People who died:
o Elizabeth Becker (When
the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000
boat people died at sea; 929,600 reached asylum
o The 20 July
1986 San Diego Union-Tribune cites the UN Refugee Commission: 200,000
to 250,000 boat people had died at sea since 1975.
o The 3 Aug.
1979 Washington Postcites the Australian immigration minister’s estimate
that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
§
Also: “Some estimates
have said that around half of those who set out do not survive.”
o The 1991
Information Please Almanac cites unspecified “US Officials” that 100,000
boat people died fleeing Vietnam.
o Encarta estimates
that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
o Nayan
Chanda, Brother Enemy (1986): ¼M Chinese refugees in two years,
30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated by Marilyn
Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
· Rummel
o Vietnamese democide:
1,040,000 (1975-87)
§ Executions: 100,000
§ Camp Deaths: 95,000
§ Forced Labor: 48,000
§ Democides in Cambodia:
460,000
§ Democides in Laos:
87,000
§ Vietnamese Boat
People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese government)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét