Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 33, 34, 35 Và 36

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - BÀI 33, 34, 35 VÀ 36
Thầy Dương Anh Sơn 

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI 

THỜI KỲ RA GIÚP LÊ LỢI BÌNH ĐỊNH GIẶC MINH THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN
(khoảng 1418 – 1429)

Bài 33

ĐỀ YÊN TỬ SƠN HOA YÊN TỰ                                            題安子山花煙寺

Yên Sơn sơn thượng tối cao phong,                                          安山山上最高峰,
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.                                              纔五更初日正紅.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,                                          宇宙眼窮滄海外,
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.                                             笑談人在碧雲中.
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu,                                            擁門玉槊森千畝,
Quải thạch châu lưu lạc bán không.                                           掛石珠旒落半空.
Nhân miếu đương niên di tích tại,                                             仁廟當年遺跡在,
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.                                             白毫光裡睹重曈.

Dịch nghĩa:

Trên núi, ở ngọn cao nhất là núi Yên Tử - Vừa mới đầu canh năm, mặt trời lúc sớm đã ửng hồng - Mắt nhìn vũ trụ ra tận ngoài biển xanh - Tiếng người cười nói trong làn mây biếc (c.1-4)– Giáo ngọc rậm dày cả ngàn mẫu che giữ cổng vào – Đá treo như ngọc trân châu tua tủa ở lưng chừng khoảng không buông xuống - Vẫn còn dấu tích đức Nhân Tông ở nơi miếu – Trong ánh sáng màu trắng như nhìn thấy đôi con ngươi (của vua Nhân Tông). (c.5-8)

Dịch thơ:

ĐỀ CHÙA HOA YÊN Ở NÚI YÊN TỬ

Yên Sơn trên đỉnh núi cao,
Canh năm trời sớm ửng màu hồng tươi.
Biển xanh, vũ trụ mắt vời,
Người cười nói giữa mây trời xanh trong.
Cửa ngàn giáo ngọc rậm đông,
Đá treo ngọc rủ khoảng không nửa chừng .
Vẫn còn dấu miếu Nhân Tông,
Thấy vầng sáng trắng đôi tròng con ngươi.

Chú thích:

** Hoa Yên tự 花煙寺: chùa Hoa Yên nằm trên núi Yên Tử trong vùng Đông Triều, tỉnh Quảng Yên (nay là Quảng Ninh). Núi còn có tên là Tượng Đầu Sơn (núi đầu voi), tương truyền có Yên Kỳ Sanh, một thiếu nữ T.H từng tu hành ở đó. Vua Trần Nhân Tông (1237-1308) sau khi nhường ngôi cho con(1923) lên tu ở chùa Hoa Yên, mở ra phái Trúc Lâm được tôn xưng là “Trúc Lâm đệ nhất tổ”. Nơi đây có miếu thờ ngài gọi là “Nhân miếu 仁廟”. Tương truyền ngài trở thành bậc cao tăng lông mi tỏa vầng hào quang sáng trắng (bạch hào quang) và đôi mắt ngài mỗi con có hai tròng(trùng đồng -hai con ngươi) của một người có tầm nhìn rộng lớn, tài giỏi.(Theo Sử Ký của
Tư Mã Thiên, vua Nghiêu và vua Thuấn trong huyền sử Trung Hoa có hai con ngươi trong mắt!). Nửa bài thơ gồm 4 câu đầu giống với bài Đề Yên Tử Sơn 題安子山 của Lê Quý Đôn nên cần có những nghiên cứu cụ thể hơn để xác định rõ tác giả.
- tà 纔: vừa mới, vừa thấy, vừa qua ,chỉ mới ,chỉ có...
- vũ trụ 宇宙: trên dưới bốn phương trời gọi là vũ, xuyên suốt xưa đến nay gọi là trụ. Chỉ không thời gian bao la vô cùng.
- bích vân 碧雲: mây trên trời xanh...
- ủng 擁: đông đảo, che đậy, ôm giữ.
- ngọc sóc 玉槊: giáo ngọc. Đây chỉ trúc tua tủa.
- sâm 森: rậm rạp, đông đảo, dày dặc...
- lưu lạc 旒落: tua, lèo cờ buông rủ xuống.
- lý 裡 (tương tự như 裏): bên trong, cái sâu xa bên trong sự vật, lần áo lót trong...
- đổ 睹: xem ,nhìn thấy...

Bài 34

CHU TRUNG NGẪU THÀNH (KỲ NHẤT)                         舟 中 偶 成 (期 一)

Vũ hậu xuân triều trướng hải môn,                                            雨後春潮漲海門,
Thiên phong xuy khởi lãng hoa phồn.                                       天風吹起浪花繁.
Bán lâm tàn chiếu sư(si) yên thụ,                                              半林殘照篩煙樹,
Cách thủy cô chung đảo nguyệt thôn.                                        隔水孤鐘搗月村.
Phong cảnh khả nhân thi nhập họa,                                           風景可人詩入畫,
Hồ sơn mãn mục tửu doanh tôn.                                                湖山滿目酒盈樽.
Cựu du lịch lịch dư tằng ký,                                                      舊遊歷歷余曾記,
Vãng sự trùng tầm chỉ mộng hồn.                                             往事重尋只夢魂,

Dịch nghĩa: 

Sau cơn mưa xuân, nước triều dâng lên ở cửa biển - Trời nổi gió làm dậy lên nhiều bọt sóng - Nửa cánh rừng bóng chiều tà như cái rây lọc khói qua những hàng cây – Cách bờ, tiếng chuông lẻ loi như giã nện vào xóm trăng (c.1-4)– Phong cảnh có thể làm cho người ta có thể vẽ vào thơ – Núi non và hồ nhìn thỏa mắt khiến chén rượu tràn đầy - Những chuyến đi chơi cũ ta từng ghi nhớ cả - Chuyện xưa tìm trở lại chỉ còn nơi hồn mộng.(c.5-8)

Dịch thơ:

ĐI THUYỀN NGẪU NHIÊN LÀM THƠ (Bài 1)

Tạnh mưa cửa biển triều xuân,
Gió lên - hoa sóng trào dâng bọt đầy.
Ánh chiều khói nửa rừng cây,
Xóm trăng chuông lẻ gõ lay cách bờ.
Cảnh làm người vẽ vào thơ,
Rượu đầy chén thỏa núi hồ ngắm thôi!
Còn ghi nhớ chuyến đi chơi,
Chuyện xưa ấy gặp tìm nơi mộng hồn.

Chú thích:

- vũ hậu xuân雨後: sau cơn mưa xuân.
- triều trướng 潮漲: thủy triều dâng lên.
- lãng hoa浪花: bọt sóng khi triều nổi hay còn gọi là hoa sóng
- phồn 繁: nhiều, đông đảo. Do thơ và nhiều sách vở của Nguyễn Trãi bị thất lạc, bị tiêu hủy sau vụ án Nguyễn Thị Lộ nên các bản gom lại được nhiều chỗ còn nghi vấn. Một số sách như bản Hoàng Khôi (NXB Văn Học- 10/1993, in laị theo bản của Ủy Ban Dịch
Thuật Phủ Quốc Vụ Khanh ĐTVH, Saigon 1972, tr.79, tập thượng, dựa theo bản của Phúc Khê thời Tự Đức) ghi là “bồn” (湓 : nước dâng tràn, nước vọt ra...); bản Đào Duy Anh ghi là “phun” (âm Hán là phún 噴 nghĩa là phun trào, xì ra...). Riêng bản của Nguyễn Gia Tuân ghi là “phồn 繁” hợp ý, hợp vần hơn....
- câu 3: nửa cánh rừng khói tỏa đan lồng qua những hàng cây trong ánh chiều tà.
- sư篩: cái rây, cái lọc, rơi rớt, lọt qua khe ,nói năng lộn xộn, khua, gõ, đập... Một số bản âm là “si”.
- đảo 搗: giã, nện, dập, gõ, quấy phá...
- câu 5: phong cảnh (đẹp) làm cho người ta dấy lên nguồn thơ phả vào bức họa phong cảnh ấy.
- mãn mục 滿目 mãn mục: hay mãn nhãn 滿 : nhìn thỏa thích qua đôi mắt...
- du lịch lịch 遊歷歷: cuộc đi chơi từng trải qua. 
- dư 余: tôi, ta ,dư thừa ,nhàn rỗi... Giản thể của 餘.

Bài 35

CHU TRUNG NGẪU THÀNH (KỲ NHỊ)                             舟 中 偶 成 (期 二)

Hải giác thiên nhai tứ ý ngao,                                                    海角天涯肆意遨,
Càn khôn đáo xứ phóng ngâm hào.                                           乾坤到處放吟毫.
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,                                               魚歌三唱煙湖濶,
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.                                      牧苖一聲天月高.
Thanh dạ bằng hư quan vũ trụ,                                                  清夜憑虛觀宇宙,
Thu phong thừa hứng giá kình ngao.                                         秋風乘興駕鯨鰲.
Du nhiên vạn sự vong tình hậu,                                                 悠然萬事亡情後,
Diệu lý chân kham phó trọc lao.                                                妙理真堪付濁 醪.

Dịch nghĩa:

Đất trời đi đến đâu cũng phóng bút ngâm ngợi – Ba câu hát của ông chài cất vang trên hồ rộng lớn khói giăng tỏa – Một tiếng sáo của kẻ chăn gia súc vút lên cao dưới trăng (c.1-4) - Đứng dựa vào đêm trong lắng mà xem không gian và thời gian – Nhân hứng có gió thu, cưỡi ngao kình – Sau khi thảnh thơi quên hết mọi việc - Lẽ sâu xa của sự vật màu nhiệm đành gởi trao vào chén rượu đục. (c.5-8)

Dịch thơ:

ĐI THUYỀN NGẪU NHIÊN LÀM THƠ (Bài 2)

Chân trời góc bể rong chơi,
Đất trời đâu cũng bút vời ngâm vang.
Chài ca hồ rộng khói giăng,
Trăng cao tiếng sáo kẻ chăn vút trời!
Dựa đêm thanh, ngắm không-thời,
Gió thu nhân hứng cưỡi chơi ngao kình.
Thảnh thơi bao việc quên tình,
Lẽ chân: rượu đục cũng đành gửi trao.

CHÚ THÍCH:
- tứ ý ngao 肆意遨 : buông thả cho ý tình rong chơi một cách ung dung; chữ tứ cũng có
thể hiểu như 四: ý tình ngao du bốn phương trời.

- hào 毫: bút lông ,lông nhọn .”Ngâm hào 吟毫”có nghĩa là vẫy bút lông làm ra thơ
phú để ngâm ngợi. Cũng như khi viết “huy hào 揮毫” nghĩa là vẫy ngọn bút lông ra
thơ .
- ngư ca tam xướng魚歌三唱: ba câu hát xướng của chài ngư.
- khoát灁 (cách viết khác 闊): xa vắng, rộng lớn, sơ suất....
- thanh dạ 清夜: đêm trong lắng.
- bằng hư憑虛 bằng hư: dựa vào bầu trời (hư: trống rỗng, trời không...).
- vũ trụ 宇宙: bốn phương, trên dưới gọi là Vũ; từ xưa đến nay gọi là Trụ: tức không gian và thời gian ,thường viết gọn là “không thời”.
- giá 駕: cưỡi, đóng xe ngựa.
- du nhiên 悠然: xa xăm, xa xôi, thảnh thơi.
- chân 真: sự thật, chân lý, điều đúng đắn, lẽ chân chính; diệu lý chân kham: cái thật sự bên trong sâu xa của sự vật rất màu nhiệm đành chịu thôi.
- lao 醪: rượu màu đục trắng

Bài 36

CHU TRUNG NGẪU THÀNH (KỲ TAM)                            舟 中 偶 成 (期 三)

Bội kiếm huề thư đảm khí thô,                                                  佩劍攜書憺氣粗,
Hải sơn vạn lý phiến phàm cô.                                                  海山萬里片帆孤.
Đồ trung nhật nguyệt tam đông quá,                                         途中日月三冬過,
Khách lý thân bằng nhất tự vô.                                                  客裡親朋一字無.
Dị cảnh mỗi kinh tân tuế nguyệt,                                               異境每驚新歲月,
Biển chu trùng ức cựu giang hồ.                                                扁舟重憶舊江湖.
Tứ phương tráng chí bình sinh hữu.                                          四方壯志平生有,
Thử khứ ninh từ ngã bộc phô (phu)                                           此去寧辭我僕痡.

Dịch nghĩa:

Đeo gươm cắp sách sợ rằng tính khí và dáng vẻ còn quê mùa, thô thiển – Muôn dặm núi và biển, mảnh buồm đơn độc lẻ loi - Giữa đường, ngày tháng đã trải qua ba mùa đông rồi – Nơi đất khách, người thân và bè bạn không (nhận được) một chữ nào.(c.1-4) - Sợ cho cảnh lạ mỗi khi năm tháng mới – Đi thuyền con, nhớ lạị những
cảnh sông hồ cũ – Chí mạnh mẽ đi bốn phương đã sẵn có – Thầy và tớ dẫu có ốm mệt vẫn đi. (c.5-9)

Dịch thơ:

ĐI THUYỀN NGẪU NHIÊN LÀM THƠ (Bài 3)

Dáng thô cắp sách, mang gươm,
Biển non muôn dặm mảnh buồm lẻ loi.
Ba đông ngày tháng qua rồi,
Người thân một chữ đất người vắng tăm.
Sợ thay, cảnh lạ tháng năm,
Thuyền con bao chuyến nhớ chăng sông hồ.
Bốn phương chí sẵn bao giờ,
Tớ, thầy dẫu mệt bơ phờ vẫn đi!

Chú thích:

- Câu 1: mang gươm, cắp sách chỉ e sợ (đảm 憺) tính khí và dáng vẻ còn quê mùa, thô thiển. Bản do Dương Bá Cung (sđd. tr.81) viết 薝 có nghĩa là riềm mũ, sợ không hợp ý câu thơ. Còn bản do Đào Duy Anh hiệu đính (sđd. tr.368) dùng nghĩa của chữ đởm (can đảm 肝膽, đảm có nghĩa khác là chùi, lau sạch),đảm 膽 theo nghĩa hăng hái, hung hăng.
- khí thô 氣粗: cái dáng vẻ (khí) còn thô thiển, còn quê mùa...
- phiến phàm cô片帆孤: mảnh buồm lẻ loi....
- đồ trung途中: giữa đường đi.
- khách lý 客裡: ở nơi dất khách ,bên trong nơi ở trọ đất khách...
- mỗi kinh每驚 mỗi kinh: mỗi lần như thế là kinh sợ.
- tân tuế nguyệt 新歲月: ngày tháng qua mau lại đến năm mới, chỉ sự thay đổi thời gian.
- ngã bộc 我僕: người đi theo giúp việc của ta (ngã). (Kinh Thi của người Trung Hoa có câu: “Ngã bộc phô hĩ 我僕痡矣, nghĩa là đầy tớ của ta đã mệt rồi).
- phô 痡: bệnh tật, đau ốm, mỏi mệt...

(Lần đến: ỨC TRAI THI TẬP – bài 37, 38 và 39)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét