THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 2: NAM TRUNG TẠP NGÂM
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 2: NAM TRUNG TẠP NGÂM (Thời kỳ ra làm quan cho nhà Nguyễn)
Bài 29
GIANG ĐẦU TẢN BỘ (nhị thủ) 江 頭 散 步 (二首)
Tán phát cuồng ca tứ sở chi, 散髮狂歌恣所之,
Lục tần phong khởi, tịch dương vi. 緑蘋風起夕暘微.
Bạch vân lưu thủy đồng vô tận, 白雲流水同無盡,
Ngư phụ phù âu lưỡng bất nghi. 漁父浮鷗兩不疑.
Vô lụy vị ưng chiêu quỉ trách, 無累未應招鬼責,
Bất tài đa khủng tốc quan phi. 不才多恐速官非.
Niên niên thu sắc hồn như hử, 年年秋色渾如許,
Nhân tại tha hương bất tự tri. 人在他鄉不自知.
Dịch nghĩa:
Tóc xõa ra, lòng đi đến chỗ buông thả, hát nghêu ngao. - Đám rau tần xanh om cùng cơn gió nổi lên khi bóng nắng chiều êm phai nhạt. - Những đám mây trắng và dòng nước chảy đều không chốn tận cùng.- Ông chài và con chim âu cả hai chẳng nghi ngờ gì nhau (c.1-4) - Không bị phiền lụy, buộc ràng làm sao vẫy gọi quỉ đến trách được? - Không có tài nên nhiều nỗi sợ việc quan vội vàng dễ sai lầm. - Mỗi năm màu sắc mùa thu đều như thế. - Người đang ở quê người tự mình không biết thôi. (c.5-8)...
Tạm chuyển lục bát:
ĐI DẠO ĐẦU SÔNG (Bài 1)
Thả buông xõa tóc hát ngông,
Chiều êm gió lộng rau tần xanh um.
Nước trôi, mây trắng không cùng,
Ông chài, âu lượn đều không ngờ nào.
Chẳng phiền lụy, quỉ trách đâu!?
Tài hèn, quan vội sợ bao lỗi lầm.
Sắc thu đều thế mỗi năm,
Tự mình đất khách biết chăng hỡi người!
Chú thích
- tản bộ 散步: đi dạo thong thả, không bận bịu hoặc vội vàng.
- cuồng ca 狂歌: hát một cách tùy tiện, hát nghêu ngao buông thả...
- tứ 恣: lòng thoải mái, không bận bịu, phóng túng không kiềm giữ...
- tịch dương vi 夕暘: trời chiều nắng phai êm ả.
- phụ 父: người đàn ông, người cha; một âm là “phủ” chỉ sự kính trọng khi gọi người trên.
- chiêu 招: vẫy gọi, đến, chuốc vào, mang đến.
- khủng tốc quan phi 恐速官非:khủng :e sợ ,sợ hãi...;tốc: vội vàng, mau chóng; phi: là sự lầm lẫn, sai lầm...: E sợ vội vàng trong việc quan dễ bị lầm lỗi.
- hồn 渾: đều như thế, ngang đều nhau, như nhau, hoàn toàn...
- hử 許: âm của “hứa”, dùng làm trợ từ: như thế, vẫn vậy...
Bài 30
GIANG ĐẦU TẢN BỘ (nhị thủ) 江 頭 散 步二
Xúc ca thanh đoản, mạn thanh trường, 促歌聲短漫聲長,
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng. 白髪蕭蕭古道旁.
Tế giản thủy thanh lưu tích vũ, 細澗水聲流積雨,
Bình sa nhân ảnh tại tà dương. 平沙人影在斜陽.
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ, 涓埃莫報生何補,
Nhi nữ thành quần tử bất phương. 兒女成群死不妨.
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn, 回首故郷秋色遠,
Hoành Sơn vân thụ chính thương thương. 橫山雲樹正蒼蒼.
Dịch nghĩa
Lúc hát nhặt, gấp gáp, tiếng phát ra sẽ ngắn, khi hát khoan hơn, thong thả hơn, tiếng phát ra sẽ dài hơn. - Tiếng gió lạnh rít lên đi bên cạnh con đường xưa với mái tóc bạc trắng. - nghe tiếng nước mưa đọng lại chảy ào ở con lạch nhỏ. - Bóng người in trên bãi cát bằng phẳng lúc trời đã về chiều.(c.1-4) - Không hề báo đáp được chút gì nhỏ nhoi, sống mà chẳng ích gì. - Con cái thành bầy, có chết cũng chẳng ngại ngùng. - Quay đầu về quê cũ, sắc màu mùa thu xa xăm, - Trên dãy Hoành Sơn, đám mây và cây cối vẫn xanh xanh một màu. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
ĐI DẠO ĐẦU SÔNG (Bài 2)
Nhặt khoan tiếng hát ngắn dài,
Đường bên gió lạnh tóc bày trắng phau.
Lạch con mưa đọng chảy ào,
Nắng chiều bãi cát sao in bóng người.
Sống chưa giúp ích nhỏ nhoi,
Con bầy trai gái, chết rồi ngại đâu!
Sắc thu quê cũ ngoảnh đầu,
Mây Hoành cây núi vẫn màu xanh xanh.
CHÚ THÍCH:
- xúc ca 促歌: xúc là thúc giục, gấp gáp. Tiếng ca gấp gáp nhanh vội mà dân gian gọi là “nhặt”.
- mạn 漫: thong thả, trái với vội vã, tùy ý, sông lớn dài dằng dặc. Ở đây chỉ tiếng ca “khoan”, thong thả.
- tiêu tiêu 蕭蕭: tiếng gió rít lạnh lẽo, tiếng ngựa hí.
- tế giản 細澗: con lạch, rạch nước nhỏ.
- tích vũ 積雨: nước mưa đọng lại.
- quyên ai 涓埃 nhỏ nhoi, nhỏ mọn, ít ỏi.
- báo 報: báo đáp, báo cáo, mau lẹ, đáp lại...
- bổ 補: bổ ích, ích lợi, bổ dưỡng,giúp ích...
- mạc 莫 mạc: không có gì, không hề, đừng, chớ, lớn lao, ổn định.
- phương 妨: ngại ngùng, e dè.
- Hoành Sơn 橫山: dãy núi nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình có đèo Ngang đi qua là cửa ngõ vào Nam ra Bắc.
Bài 31
NGẪU ĐẮC 偶 得
Cô thành nhật mộ khởi âm vân, 孤城日暮起陰雲,
Thanh thảo man man đáo hải tân. 青草漫漫到海濱.
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt, 曠野遍埋無主骨,
Thù phương độc thác hữu quan thân. 殊方獨托有官身.
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã, 事來徒隸皆驕我,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân. 老去文章亦避人.
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lí, 望外鴻山三百里,
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân. 相從何處問前鄰.
Dịch nghĩa:
Thành cô quạnh vào chiều tối mây âm u nổi lên, - Vùng cỏ xanh rộng lớn trải đến gần bờ biển. - Cánh đồng trống trải vùi chôn khắp nơi những nắm xương vô chủ. - Một thân nơi phương trời xa lạ gửi cho việc làm quan.(c.1-4) - Khi có việc vàng đến, đám lại nha đều vênh váo với ta. - Tuổi già đến chuyện văn chương cũng lẫn tránh người. - Ngóng nhìn về ngoài núi Hồng ba trăm dặm, - biết chốn nào để cùng theo đến hỏi thăm xóm thôn trước kia? (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
TÌNH CỜ LÀM ĐƯỢC THƠ HAY
Thành chiều mây nổi tối sầm,
Cỏ xanh trải khắp đến gần biển khơi.
Khắp đồng không chủ xương vùi,
Một thân trời lạ gửi đời làm quan.
Lại nha vênh váo việc vàng,
Văn chương lẫn tránh người đang về già!
Ngóng ba trăm dặm xa xa,
Non Hồng xóm cũ hỏi là chốn nao?!
Chú thích:
- âm 陰: âm u, tối sầm, tối tăm, khí âm, bóng mặt trời.
- man man 漫漫: mênh mông, rộng khắp.
- tân 濱: đến gần, gần sát, bờ biển, bờ sông, bờ nước.
- khoáng dã 曠野: cánh đồng trống trải, rộng lớn.
- biến 遍: khắp nơi, trải ra.
- thù phương 殊方: phương trời xa lạ, nơi chốn lạ lẫm.
- đồ lệ 徒隸: những người tù tội lao dịch nặng nhọc. Cũng chỉ những người giúp việc quan gọi là nha lại.
- tương tòng 相從: cùng theo nhau.
- tiền lân 前鄰: xóm cũ trước kia, xóm thôn phía trước.
Bài 32
ĐẠI TÁC CỬU THÚ TƯ QUI (nhị thủ) 代作久戍思歸(二首)
Quan ngoại thu phong tống địch xuy, 關外秋風送笛吹,
Ban Siêu đầu bạch vị thành quy. 班超頭白未成歸.
Thập niên hứa quốc quân ân trọng, 十年許國君恩重,
Thiên lí ly gia lữ mộng trì. 千里離家旅夢遲.
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn, 夜繡榮花身外幻,
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi. 朝雲名利眼前非.
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục, 隴阡歲歲瓜田熟,
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ. 苦盡甘來尚有期.
Tạm chuyển lục bát:
LÀM THAY NGƯỜI ĐI THÚ ĐÃ LÂU MONG TRỞ VỀ (Bài 1)
Gió thu ngoài ải sáo đưa,
Ban Siêu đầu bạc vẫn chưa trở về.
Mười năm ơn nước nặng nề,
Khách xa ngàn dặm mải mê mộng nhà.
Gấm đêm hư ảo vinh hoa,
Lợi danh mây sớm bay qua mắt vời.
Ruộng gò dưa chín – năm trôi,
Khổ xong, sướng đến có thời mà thôi!
Dịch nghĩa:
Cơn gió mùa thu ngoài quan ải đã đưa tiếng sáo đi xa, - Ban Siêu đã bạc đầu vẫn chưa xong việc để quay trở về. - Mười năm đáp lại mong đợi của đất nước vì ơn vua rất nặng. - Rời xa nhà ngàn dặm, khách đi xa mải miết trong giấc mộng. (c.1-4) - Chuyện vẻ vang, vinh hiển như tấm vải gấm ban đêm, chỉ là điều giả dối, không thật ở ngoài thân. - Có phải chuyện danh lợi chỉ là đám mây buổi sáng thay đổi luôn bay qua trước mắt chăng? - Đám ruộng gò trồng dưa đã chín, năm này qua năm khác. - Hết chuyện khổ cực sẽ đến kỳ được sung sướng.(c.5-8)
Chú thích:
- Ban Siêu 班超: danh tướng đời Đông Hán xông pha đánh dẹp và giữ yên vùng tây bắc Trung Hoa suốt 30 năm. Mãi đến lúc đầu bạc, già yếu được vua cho về.
- thú 戍: lính tráng hoặc dân công bị triều đình cắt cử, sai phái trấn giữ vùng biên giới hoặc các nơi hiểm yếu ngày xưa.
- lữ mộng 旅夢: giấc mộng của người đi xa xứ.
- trì 遲: chậm chạp, đi chậm rãi, trì trệ, kéo dài, không tiến xa được.
- dạ tú vinh hoa 夜繡榮花: tấm vải gấm đẹp đẽ của những người vinh hiển giàu sang ban đêm cũng chẳng thấy gì đẹp vì trời tối om.
- phi 非 phi: không đúng, sai lầm, chê trách, không có, chưa từng, há chẳng phải, phải chăng (nghi vấn).
- lũng thiên 隴阡: loại ruộng trồng trên các gò đất ,đường nơi bờ ruộng hoặc nơi có bãi tha ma. Cũng chỉ đất Lũng xa xôi ở vùng Thiểm Tây bên Trung Hoa, nơi quân lính đi đồn trú....
- qua điền thục 瓜田熟: ruộng dưa chín. Do chuyện Liên Xưng và Quản Chi Phủ đi thú ở Quì Khâu ngang qua ruộng dưa chín hẹn mùa dưa chín năm sau sẽ trở về (Tả Truyện)
(Lần đến: THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU Tập 2: NAM TRUNG TẠP NGÂM – Bài 33, 34, 35 và 36)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét