Thứ Hai, 5 tháng 4, 2021

Thơ Của Nguyễn Du - Thanh Hiên Thi Tập - Bài 2, 3, 4

 


THANH HIÊN THI TẬP - Bài 2, 3, 4
Chuyển dịch: Thầy Dương Anh Sơn

BÀI 2

U CƯ                                                          幽居   二)         

Đào hoa, đào diệp, lạc phân phân,           
桃花桃葉落紛紛     

Môn yểm tà phi nhất viện bần.                   門掩斜扉一院貧
Trú cửu đốn vong thân thị khách,               
住久頓忘身是客
Niên thâm cánh giác lão tùy thân.             
年深更覺老隨身
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,      
鄉養拙初防俗
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân.               
亂世全生久畏人
Lưu lạc bạch đầu thành để sự,                   
流落白頭成底事
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.                    
西風吹倒小烏巾
Nguyễn Du                                                 
 


Tạm chuyển lục bát:

Ở NƠI VẮNG VẺ (Bài 2)

Hoa đào lá rụng tơi bời,
Một nơi nghèo khó khép vời cổng nghiêng.
Ở lâu, thân khách bỗng quên,
Năm thêm già lão thấy bên thân rồi.
Khác quê, giả vụng phòng người,
Mạng toàn nên sợ người đời loạn ly.
Bạc đầu chẳng được việc gì!
Gió tây thổi bật khăn che mái đầu.

DỊCH NGHĨA:

Hoa đào và lá đào rơi rụng khắp chốn. Cánh cửa cổng nghiêng lệch với một nơi chốn nghèo nàn. Ở đây lâu ngày quên đi chính mình là khách. Năm tháng chồng chất thấy tuổi già theo liền bên mình. Nơi quê người phải làm vẻ vụng về để đề phòng những kẻ tầm thường tục tằn. Sống thời loạn lạc, giữ cho được tính mạng lâu dài phải sợ người. Lưu lạc đến khi mái đầu đã bạc mà chẳng được việc gì cả ! Cơn gió phía tây thổi bật chiếc khăn che đầu.

CHÚ THÍCH:

- lạc phân phân 落紛紛: rơi lả tả khắp nơi.
- viện : nơi chốn, tòa sảnh, sở, viện, tường thấp bao quanh
- yểm : đóng lại, khép lại, che đậy.
- tà phi 斜扉 phi: cánh cửa. Cánh cửa nghiêng lệch xiêu vẹo.
- bần : nghèo khó, nghèo nàn, giản dị, sống đơn giản.
- đốn : nơi dừng lại nghỉ ngơi, ngay tức thì, bỗng chốc, (chữ nhà Phật dùng chữ đốn ngộ để nói về sự giác ngộ, thấy rõ lẽ đạo ngay tức thì…), tan vỡ, đình đốn, đình trệ…
- niên thâm 年深 : thêm nhiều năm nữa.
- giác : hiểu ra, thấy ra, biết ra một sự việc hay vấn đề nào đó. Nhà Phật gọi việc thấy rõ chân lý cuộc đời (KHỔ Đế) là giác ngộ.
- tùy : đi theo, theo bên, tuân theo, dựa theo…
- dưỡng chuyết 養拙 : nuôi dưỡng sự vụng về (giả ra vẻ vụng về, đơn giản, chất phác…).
- thành để sự 成底事 : việc chẳng ra sao, chẳng được việc gì cả. 

BÀI 3 

SƠN CƯ MẠN HỨNG                           山居漫興

Nam khứ Trường An thiên lý dư,           南去長安千里餘
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.         
群峯深處野人居
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,                 
柴門晝靜山雲閉
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.           
藥圃春寒隴竹疏
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,     
一片鄉心蟾影下
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.            
經年別淚雁聲初
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,           
鄉弟妹音耗絕
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.                
不見平安一紙書

Nguyễn Du                                                 

Tạm chuyển lục bát:

CẢM HỨNG Ở NÚI

Phía nam ngàn dặm Trường An,
Quê mùa có kẻ non ngàn trú thân.
Cửa tre ngày vắng mây giăng,
Lơ thơ vườn thuốc, lạnh hàng trúc xuân.
Lòng quê một mảnh dưới trăng,
Năm chày tiếng nhạn lệ tràn chia xa.
Bặt tin em út quê nhà,
Chẳng thư nào báo thấy là bình yên.

DỊCH NGHĨA:

Ở phía nam Trường An hơn ngàn dặm, nơi dãy núi sâu có kẻ quê mùa đang trú thân. Ban ngày yên ắng, mây núi giăng che cánh cửa tre. Lơ thơ mấy hàng cây thuốc và vồng trúc trong mùa xuân lạnh buốt. Một mảnh lòng nhớ quê hương dưới bóng trăng. Tiếng con chim nhạn đầu mùa làm đẫm lệ người chia xa đã trải qua nhiều năm chày. Chốn quê nhà bặt hẳn tin tức các em trai, em gái. Một tờ giấy thư cũng chẳng thấy để biết là có được bình an không.

CHÚ THÍCH:

- Trường An 長安: chỉ kinh thành Thăng Long theo cách gọi tên kinh đô đời Đường (TQ).
- quần phong 群峯: một cụm núi, dãy núi liên tiếp nhau.
- dã nhân 野人: dã nhân: kẻ quê mùa, người có cuộc sống đơn giản, mộc mạc.
- sài môn 柴門: cửa cổng ra vào làm bằng củi hoặc tre.
- bế 閉: đóng cửa, lấp nghẽn, che giăng, cửa ngách…
- dược phố 藥圃: vườn trồng thuốc.
- lũng trúc 隴竹: gò hoặc vồng để trồng trúc.
- nhất phiến hương tâm 一片鄉心: một mảnh lòng nhớ quê hương (phiến: mảnh miếng, một nữa)
- thiềm ảnh 蟾影: bóng con thiềm thừ tức con cóc do tích Hằng Nga vợ Hậu Nghệ bên Trung Hoa, lấy trộm thuốc tiên của Tây Vương Mẫu bay lên cung trăng biến thành con cóc (Sách Hậu Hán thư).
- kinh niên 經年: trải qua nhiều năm, năm chày.
- âm hao tuyệt 音耗絕: bặt hẳn tin tức, tuyệt nhiên không có tin tức gì. (âm hao: giống như “âm vấn” 音问 chỉ tin tức)
- chỉ thư 紙書: tờ giấy viết thư. 

BÀI 4 

TỰ THÁN                 (Kỳ nhất)

自嘆      (   ) 

生未成名身已衰            Sinh vị thành danh thân dĩ suy,  

蕭蕭白髮暮風吹            Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.

性成鶴脛何容斷            Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn,

命等鴻毛不自知            Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri.

天地與人屯骨相            Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng,  

春秋還汝老鬚眉             Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi.

斷蓬一片西風急            Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp

畢竟飄零何處歸            Tất cánh phiêu linh hà xứ quy.  

                               Nguyễn Du

                          

Tạm chuyển lục bát:

THAN THÂN (Bài 1)

Sống chưa danh phận thân suy,
Thổi làn tóc bạc gió chiều vi vu.
Tính người chân hạc cắt ư?
Biết chăng số mệnh đều như lông hồng.
Đất trời dáng vóc gian truân,
Quẩn quanh già với thu xuân râu mày.
Ngọn bồng lìa vội gió tây,
Cuối cùng tàn tạ quay về chốn nao?!

DỊCH NGHĨA:

Sống chưa làm nên danh tiếng gì mà tấm thân đã suy yếu. Ngọn gió chiều thổi làn tóc trắng kêu vi vu. Cái tính người (của mình) như chân con hạc có thể nào cắt được không? Còn mạng (của mình) ngang với sợi lông hồng ta có biết hay chăng? Đất trời phú cho mình vóc dáng (phải chịu) gian khó truân chuyên. Xuân thu quay lại (nối nhau) làm cho râu mày người già cỗi đi rồi. Cơn gió tây vội thổi đứt lìa ngọn cỏ bồng. Rốt cùng (ta) sẽ tàn tạ, rụng rơi về chốn nào đây?

CHÚ THÍCH:

- danh 名: tên gọi sự vật hoặc tên người; ngày xưa “thành danh” là con được học hành, đỗ đạt ra làm quan của các nho sĩ. Trong triết học TQ, khái niện “danh” gắn liền với khái niệm “thực” vì nhiều kẻ như người đời thường nói: “hữu danh, vô thực”. Nghĩa là có tiếng mà không có thực chất hoặc khả năng thực sự.
- tiêu tiêu蕭蕭 (xem chú thích ở bài 1)
- tính 性: bản chất sinh ra tự nhiên không thay đổi và khác nhau giữa các sự vật. Đôi khi cũng dùng chỉ mạng sống (tính mạng)...
- hạc hĩnh 鶴脛: ống chân chim hạc...

- đẳng 等: đều nhau, ngang bằng nhau, chờ đợi, thứ bậc... 
- mệnh 命: theo đạo Nho, mỗi người sinh ra đều có tính và mệnh; Trời cao cho mỗi người cái mệnh (mạng), trời sắp đặt cho họ được sung sướng hay khổ cực. Đó là thiên mệnh.
- nhân truân cốt tướng 人屯骨相: cuộc sống mỗi người gian khổ, khó nhọc (nhân truân) đều do dáng vóc, tướng tá (cốt tướng) trời sinh.
- xuân thu 春秋: chỉ sự quay vòng của chu kỳ thời gian ,sự chuyển mùa...
- nhữ 汝: mày, ngươi; tên dòng sông bên TQ ở tỉnh Hà Nam (Nhữ giang)
- bồng 蓬: cây cỏ bồng rất nhẹ dễ bị gió cuốn; chỉ sự bềnh bồng, trôi nổi không ổn định...
- tất cánh 畢竟: sau hết, rốt cùng, cuối cùng....
- phiêu linh 飄零: tàn tạ, rơi rụng... 

(xem tiếp: Bài 5,6,7)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét