Cổng chính đi vào Đền Các Vua Hùng
MỘT LẦN ĐẾN THĂM ĐỀN CÁC VUA HÙNG VÀ VÙNG CỰC BẮC CŨA ĐẤT NƯỚC
Thầy Đương Anh Sơn
III.- ĐÈO MÃ PÍ LÈNG và CÁC DÒNG SÔNG
Từ giã Đồng Văn, xe đưa đoàn theo quốc lộ 4 C đi qua một con đèo trước đây khá hiểm trở có tên là Mã Pí Lèng thuộc huyện Mã Pí Lèng và Mèo Vạc, Hà Giang. Tuy đường đi có nhiều khúc cổ tay, ngoằn nghèo nhưng với các phương tiện cơ giới bây giờ, đường cũng dễ đi đủ hai xe tránh nhau. Được xây dựng trên các triền núi đá vôi lởm chởm nhưng khá vững chải của công viên địa chất Đồng Văn nên dù trời mưa to cũng không sợ lỡ đất đá như đèo Bảo Lộc của Lâm Đồng.
Vùng Mã Pí Lèng viết đúng theo cách phát âm của người bản địa là Mã Pí Lèng. Trước kia thời 1959, đường được cả ngàn lượt thanh niên gian nan để mở đường do chưa có máy móc phải dùng đồ thô sơ để đục đẽo đá cứng ở độ cao 1200 m. Hai mươi cây số đi qua đỉnh núi của đèo làm xong. Phải mất 6 năm nữa con đường 160 km qua Cao Bằng mới hoàn tất. Có lẽ giai đoạn này, miền Bắc thiếu thốn đủ thứ, nếu có những xe làm đường chuyên nghiệp chưa phải loại đời mới bây giờ như trong Nam thời 1960 không phải dùng sức người quá khổ như thế! Xe dừng trên một khúc rộng trên đèo để mọi người xuống xe chiêm ngưỡng con sông Nho Quế xanh mướt dưới vực sâu nhìn từ đèo xuống. (h. 3). Đó là con sông xuất phát từ Vân Nam, Trung Hoa dài 192 km; ở nước Việt nó chỉ có 45 km đi qua Đồng Văn, Mèo Vạc đổ vào sông Gâm hay nói dúng hơn là sông Gầm ở Cao Bằng.
Dòng Nho Quế xanh mướt nhìn từ đèo Mã Pí Lèng
Bữa ăn một quán" lớn" vùng cực bắc đều giống nhau: rau luộc, canh rau, cá sông, dĩa muối ớt thêm dĩa gà luộc và đậu hủ kho nhưng ngon và sạch.....
IV.- ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG GÂM (GẦM)
Ngủ lại Bắc Mê, ngày thứ tư của chuyến ra bắc, sau khi ăn sáng xong, xe đưa chúng tôi tới bến thuyền cách trung tâm thị trấn chính của huyện không xa để xuống thuyền sắt xuôi dòng sông Gâm.
Sông Gâm trước kia vẫn gọi là sông Gầm là một nhánh của sông Lô phát xuất từ Vân Nam, Trung Hoa có tên là Bạch Nam Hà dài 297 km, chảy vào Việt Nam có tên sông Gâm (Gầm) dài 217 km đi qua các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang rồi đổ vào sông Lô ở huyện Yên Sơn. Các con đường đèo cũng uốn lượn theo các con sông đổ vào sông Gâm dưới vực đèo qua các vùng đá phiến thạch anh Bắc Kạn...
Ngồi thuyền xuôi dòng sông Gầm đến Na Hang, Tuyên Quang
Núi non ven dòng sông đi đền lòng hồ Na Hang
Thỉnh thoảng, chúng tôi lại gặp những thác nước lớn nhỏ từ triền đá cao chảy xuống trông rất ngoạn mục.
Những thác nước từ triền núi cao đổ xuống điểm thêm cho cái đẹp vốn sẵn có của dòng sông.
Một cột đá như một tòa nhà cao gần 100m ở giữa con sông.
Sông nước và núi non hòa quyện
Nghe nói cá sông Gâm rất ngon, người thầy từng dạy Triết lớp 12 của tôi đi cùng đoàn đã dặn anh hướng dẫn viên công ty Thế Hệ Trẻ báo cho nhà thuyền mua cá lăng là món chính buổi ăn trưa trên thuyền. Sông Gâm, theo như anh hướng dẫn du lịch cho biết có năm loại cá nổi tiếng là cá anh vũ, dầm xanh, cá lăng, cá bống, cá chiên cùng nhiều loại tôm cá khác. Cá anh vũ xưa để tiến cung dâng cho vua và hầu như mất bóng. Bữa cơm do đứa em tài công khoảng trên hai mươi tuổi chuẩn bị từ khi thuyền rời bến trông tươm tất và quả thật nấu khá ngon miệng nhất là cá lăng hấp ướp hương vị rau thì là pha nghệ ăn với bánh tráng.
Bữa ăn rất vui và ngon trên thuyền dọc sông Gâm.
V.- THĂM THÁC BẢN GIỐC
Rời hồ Ba Bể, đoàn chúng tôi lên đường đi Cao Bằng để ghé thăm thác Bản Giốc, một thác nước được nhiều người Việt rất quan tâm vì hai lý do chính yếu. Trước hết, đó là một trong những thác nước đẹp nhất nước Việt Nam. Và thứ hai đó là một thác nước phải chia ranh và đóng cọc mốc biên giới ngay giữa thác xác định phần phía trái của thác chính cùng nguyên thác phụ gần đó là của Việt Nam; nửa bên thác chính phía đông là của nước Trung Hoa mà bây giờ đều gọi quen là Trung Quốc! Trước năm 1999, khi chưa có sự phân định biên giới vùng thác Bản Giốc, hầu như người dân Việt theo sách vở cũ và những tư liệu lịch sử từ thời Pháp thuộc vẫn nghĩ rằng thác Bản Giốc đương nhiên là của nước ta!
Từ những năm 2000 trở đi, rất nhiều người vẫn nghĩ là có một sự sắp xếp nào đó kèm theo những mưu toan xảo trá của Trung Quốc trong việc đảo ngược những giấy tờ gọi là hòa ước chính quyền Pháp xâm chiếm nước ta đã ký với nhà Thanh Trung Hoa từ 1887 và 1895 phân chia thác Bản Giốc như đã nêu trên. Năm 1999, hai bên tái xác nhận và định rõ lại đường biên giới đi qua giữa thác chính... Hầu như không thấy Trung Quốc công khai trưng bản gốc của Hòa ước 1887 và 1895. Chỉ nghe họ nói như thế và trong những gì hai bên đàm phán đưa ra về Bản Giốc... Một kẻ thù cả hai ngàn năm nay chưa bao giờ đứng về cái thiện, cái đúng sẽ dùng đủ mưu kế khi đàm phán biên giới! Hình ảnh của Trung Quốc xưa nay luôn đồng nghĩa là mưu mô, gian xảo, trí trá, tiểu xảo, hung tợn...! Khó mà tin vào được những gì họ nói vì nói một đằng làm một nẻo như chuyện biển Đông trước mắt!
Thành ra, trong chuyến đi này, tôi rất thỏa lòng được ghé đến một địa danh lịch sử còn nhiều nghi vấn... Chỉ sợ lòng tham không đáy về đất đai, biển đảo của bọn xâm lược phương Bắc này chẳng bao giờ dừng lại. Bọn chúng về lâu dài đang mưu tính nuốt dần không phải chỉ là thác Bản Giốc mà thôi...
Chúng tôi ghé lại Bản Giốc trong một buổi chiều mưa tầm tả. Thác nước từ độ cao chảy ào ào xuống khiến bọt tung tóe bay khắp khu vực trước thác hòa cùng cơn mưa nặng hạt. Tôi nhìn những người trong đoàn thấy họ dù mưa gió vẫn thích đứng chụp cảnh thác nước lịch sử! Tâm trạng của mỗi người không ai giống ai, nhưng chắc chắn cùng có mẫu số chung là tình yêu quê hương đất nước tràn trề mà thác Bản Giốc là một hình ảnh rất tiêu biểu để qua đó nghĩ về số phận và tương lai quê cha đất tổ nhiều hơn!
Mưa và bụi nước từ thác tung tóe trong khi đang đứng trước thác Bản Giốc.
Quả thật nhìn thác nước trong cơn mưa chiều, chúng ta thấy sự hùng vĩ và cái đẹp của nó. Cảm nhận về cái đẹp mỗi người mỗi vẻ nhưng giống nhau vì thác nước vùng biên giới này từng gắn liền với bao triều đại gắn liền với việc thành hình nước Việt ở phương Nam. Sự chia đôi biên giới của thác nước cũng có nghĩa trong tâm thức là chia đôi cái đẹp hay là cái đẹp nửa vời! Cái đẹp của thác chưa thực sự hoàn hảo và của riêng đất nước Việt!
Thác Bản Giốc vùng biên giới trong cơn mưa chiều......
Lên xe rời thác Bản Giốc khi cơn mưa chiều đã bớt. Xe đưa chúng tôi về lại một khách sạn ở Cao Bằng nghỉ đêm để sáng hôm sau đi thị trấn Đồng Đăng cách khoảng 125 km. Đồng Đăng vốn được biết đến qua câu ca dao quen thuộc:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bỏ công bác mẹ sinh thành ra em...
Ngày nay, ngoài những địa điểm du lịch nổi tiếng từ trước, thị trấn Đồng Đăng và thành phố Lạng Sơn từng được đề cập nhiều và đi vào lịch sử với những trận đánh ác liệt cách đây 40 năm ngăn chặn bọn xâm lược phương Bắc tràn vào vùng cực bắc và đông bắc nước ta. Tháng 2/1979, mấy chục quân đoàn của bọn xâm lược Trung Quốc tiến công nước ta về mạn bắc trong đó có Đồng Đăng và Lạng Sơn phải gánh chịu những tổn thất rất lớn. Nơi đây từng chứng kiến những thiệt hại về quân số, xe tăng của bọn chúng cũng như những hy sinh mất mát của người dân vùng này... Bốn mươi năm trôi qua (1979-2019), những vết tích của cuộc chiến đấu khốc liệt thuở ấy vẫn còn ở một số địa điểm lịch sử nhưng bộ mặt phố xá đã thay da đổi thịt của một thời hòa bình...
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét