Thu hứng (kỳ lục) 秋興 (其六)
Cù Đường hiệp khẩu Khúc giang
đầu,
瞿塘峽口曲江頭,
Vạn lý phong yên tiếp tố thâu
(thu).
萬里風煙接素秋。
Hoa Ngạc giáp thành thông ngự khí,
花萼夾城通御氣,
Phù Dung tiểu uyển nhập biên sầu.
芙蓉小苑入邊愁。
Châu mộ tú trụ vi hoàng hộc,
珠幕繡柱圍黃鹄,
Cẩm lãm nha tường khởi bạch
âu.
錦纜牙檣起白鷗。
Hồi thủ khả liên ca vũ địa,
回首可憐歌舞地,
Tần Trung tự cổ đế vương châu.
秦中自古帝王州。
Đỗ Phủ
杜甫
Dịch nghĩa:
Ở cửa doi đất Cù Đường phía đầu sông Khúc, gió và khói mùa thu vẫn thường tiếp nối nhau muôn dặm. Khắp vùng Hoa Ngạc gần bên thành đều xuyên suốt không khí của nhà vua; vùng Phù Dung, nơi khu vườn nhỏ, nỗi buồn sầu từ biên ải đang đưa đến. Màn châu ngọc, cột năm màu lộng lẫy bao quanh những con ngỗng vàng. Dây neo thuyền bằng gấm và cột buồm bằng ngà với những con chim âu trắng bay lên. Quay đầu lại, khá thương cho vùng đất ca múa! Tần Trung từ xa xưa đã là khu vực của các bậc vua chúa.
Tạm chuyển lục bát:
CẢM HỨNG MÙA THU (Bài 6)
Cửa doi sông Khúc Cù
Đường,
Nối nhau làn khói dặm
ngàn gió thu.
Gần thành, Hoa Ngạc khí
vua,
Phù Dung, vườn nhỏ ải đưa
nỗi sầu.
Ngỗng vàng quanh trụ rèm
châu,
Cột ngà ,neo gấm chim âu
lượn bầy,
Đất ca múa ,ngoảnh thương
thay.
Tần Trung, vua chúa châu
này từ xưa.
Chú thích:
- hiệp 峽 (còn gọi là giáp hoặc hạp ): eo đất, doi đất vươn ra phía có hồ nước hay mặt biển. Có khi người Việt một số vùng gọi là kẽm.- ngự khí 御氣: bầu khí khi có vua hiện diện.
- biên 邊: nơi biên ải, vùng biên giới.
- tú 繡: đủ năm màu, thêu thùa đẹp đẽ, hoa lệ...
- nha 牙: răng, ngà voi, cắn xé, gấu ó...
- tường 檣: cột buồm, cây sào dài...
- khả liên 可憐: đáng thương thay, đáng xót thương, đáng yêu....
- châu 州: khu vực hành chánh, châu quận ngày xưa (Hoan Châu, Giao
Châu...) , khu vực địa lý. (Á châu, Úc châu...)
Thu hứng (kỳ thất) 秋興 (其七)
Côn Minh trì thuỷ Hán thì
công,
昆明池水漢時功,
Vũ Đế tinh kỳ tại nhãn trung.
武帝旌旗在眼中。
Chức Nữ cơ ti hư dạ nguyệt,
織女機絲虛夜月,
Thạch kình lân giáp động thu phong.
石鯨鱗甲動秋風。
Ba phiêu cô mễ trầm vân hắc,
波漂菰米沉雲黑,
Lộ lãnh liên phòng đọa phấn
hồng. 露冷蓮房墮粉紅。
Quan tái cực thiên duy điểu đạo,
關塞極天惟鳥道,
Giang hồ mãn địa nhất ngư ông.
江湖滿地一漁翁。
Đỗ Phủ
杜甫
Dịch nghĩa:
Hồ nước ở (thành) Côn Minh còn đó
công lao của thời nhà Hán. Cờ xí của Hán Vũ Đế như đang còn trong mắt. Khung
cửi dệt tơ của Chức Nữ trống rỗng trong đêm trăng. Vảy che chở con cá kình bằng
đá (như) lay động bởi ngọn gió mùa thu. Sóng dạt đám lúa cô mễ chìm khuất dưới
nước như đám mây đen mịt mù. Móc sương làm lạnh làn hương sen và rơi
rụng bụi phấn hồng. Miền quan ải biên giới ở tận cùng bầu trời chỉ có
đường chim bay. Ông chài (này) là kẻ đi khắp sông hồ trên mặt đất.
Tạm chuyển lục bát:
CẢM HỨNG MÙA THU (Bài 7)
Nước hồ công Hán Côn
Minh,
Vẫn còn Vũ Đế cờ tinh mắt
nhìn.
Trơ khung, Chức Nữ trăng
đêm!
Gió thu giáp đá vảy kình
động khơi,
Mây đen cô mễ sóng trôi,
Hương sen móc lạnh rụng
rơi phấn hồng.
Ngất trời chim ải con
đường,
Một ông chài cá hồ sông
khắp rồi!
Chú thích:
- Côn Minh trì 昆明 池: hồ nằm ở tỉnh Vân Nam, TH có từ hơn 300 năm
TCN. Đây là nơi Lưu Tú tức Hán Quang Vũ Đế cho tập trận thủy chiến trước khi đi
đánh các lực lượng khác quanh vùng Trường An (hồ Côn Minh còn có tên là Điền
Trì)
- trì 池: hào nước đào ven thành trì để hỗ trợ ngăn giặc; cũng chỉ
ao, hồ, đầm nước...
- Vũ Đế 武帝: tức Hán Quang Vũ Đế 漢光 武帝,
sáng lập nhà Đông Hán còn gọi là Hán Thế Tổ, tên Lưu Tú, hoàng đế thứ 16 tiếp
nối nhà Tây Hán do Hán Cao Tổ Lưu Bang dựng nên. Năm 29 SCN, Lưu Tú khi chuẩn
bị lên ngôi đã sai Mã Viện đem hai vạn quân đánh Giao Châu (tên do bọn xâm lăng
phương Bắc đặt ra thay thế cho Âu Lạc) trấn áp cuộc nổi dậy của hai chi em Bà
Trưng khi Thái Thú Tô Định giết chồng Trưng Vương là Thi Sách.... Khi rút về
chỉ còn một vạn quân do một số quân ở lại trấn nhậm và một số đã bị tiêu
diệt...
- tinh kỳ 旌旗: tinh là ngọn cờ hiệu lệnh có gù gắn lông chim (Nguyễn Du
trong Truyện Kiều có câu: "Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp
đường" - câu 2222)
- Chức Nữ 織女: Theo cổ tích của Trung Hoa ngày xưa có chàng chăn trâu
trên thiên giới còn trẻ tên là Ngưu Lang 牛郎. Một hôm đi chăn trâu trên trời nhìn thấy bảy cô
tiên nữ đang tắm đùa giỡn vui vẻ. Do sự thúc đẩy của bạn đồng hành là con trâu
đực tinh quái, Ngưu Lang đã lấy trộm xiêm áo của các cô tiên. Tắm xong, lên bờ
không thấy xiêm áo mà chỉ thấy một chàng trai và con trâu đứng xa xa. Các cô
tiên đã giao cho cô em út xinh đẹp là Chức Nữ đến xin lại áo quần. Do đã nhìn
thấy thân thể của Chức Nữ nên khi Ngưu Lang cầu hôn, nàng đành chấp nhận. Nhưng
Thiên Hậu ,mẹ các nàng tiên không chấp nhận cuộc hôn phối này vì cho là Ngưu
Lang là kẻ tầm thường. Bà bắt Chúc Nữ phải trở lại công việc dệt cửi, thêu thùa
và chia cắt hai vợ chồng bằng dải sông Ngân. Ngọc Hoàng vì thương cảm cho Ngưu
Lang và Chức Nữ nên cho phép mỗi năm vợ chồng Ngưu Lang & Chức Nữ vào đêm
thứ bảy, tháng bảy âm lịch sẽ cho chim Ô Thước bắt cầu để vợ chồng gặp nhau...
- cơ ti 機絲: khung cửi dệt tơ.
- hư 虛: trống trơn, trống rỗng, không đúng, không thực, sợ hãi, khoảng
trời không hư ảo,
lỗ hổng, thiếu, vơi đi...
- lân giáp 鱗甲: vảy cứng để bảo vệ.
- phiêu 漂: trôi nổi, phiêu bạt, trôi dạt, đãi lọc, tẩy rửa...
- cô mễ 菰米: loại mễ cốc có hạt như hạt lúa màu đen, thân cao và cho
hạt vào mùa thu mọc hoang trong các đầm ao...
- lộ 露: hạt sương bám vào cây cỏ, gặp khí lạnh tụ lại thành hạt
móc (lộ) chảy ra rìa hay đầu ngọn lá, gọi chung là sương móc; lộ ra bên ngoài
- liên phòng 蓮房: hương thơm của hoa sen.
Thu hứng (kỳ bát) 秋興 (其八)
Côn Ngô ngự túc tự uy di
(dĩ),
昆吾御宿自逶迤,
Tử Các phong âm nhập Mỹ Bi.
紫閣峰陰入渼陂。
Hương đạo trác dư anh vũ lạp,
香稻啄余鸚鵡粒,
Bích ngô thê lão phụng hoàng chi.
碧梧栖老鳳凰枝。
Giai nhân thập thuý xuân tương vấn, 佳人拾翠春相問,
Tiên lữ đồng chu vãn cánh di.
仙侶同舟晚更移。
Thái bút tích tằng can khí
tượng,
彩筆昔曾干氣象,
Bạch đầu ngâm vọng khổ đê thuỳ.
白頭吟望苦低垂。
Đỗ Phủ
杜甫
Dịch nghĩa :
Đi quanh quất nơi vùng đất Côn Ngô
là nơi nhà vua từng nghỉ lại đêm. Ngọn núi cao phía bắc của vùng Tử Các chìm vào
(sông) Mỹ Bi. Những hạt lúa thơm bị bỏ thừa khi chim anh vũ đã mổ ăn .Chim
phượng hoàng đậu trên cành ngô đồng lá xanh biếc mãi đến già. Người đẹp
nhặt nhạnh lông chim trả, cùng với mùa xuân hỏi thăm nhau. Bạn tiên lại cùng
ngồi thuyền di chuyển lúc xế chiều. Xưa trước, ngòi bút (của ta) từng được
khen ngợi sáng rỡ, có phong cách. Lúc bạc đầu, (ta) ngâm ngợi và xem nỗi
vất vả đang theo sau (ta).
Tạm chuyển lục bát:
CẢM HỨNG MÙA THU (Bài 8)
Quanh vùng vua nghỉ - Côn
Ngô,
Núi cao Tử Các phủ mờ Mỹ
Bi.
Lúa thơm, anh vũ bỏ đi,
Cành ngô xanh biếc, nghỉ
cây - phượng hoàng.
Người xinh, nhặt thúy
thăm xuân,
Cùng thuyền, tiên bạn
chiều tàn đi thôi.
Bút xưa, phong cách sáng
ngời,
Bạc đầu cúi xuống ngâm
vời đắng cay.
Chú thích:
- Côn Ngô 昆吾: tên vùng đất nay thuộc thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà Nam, T.H. Xưa kia, vua Côn Ngô là một vị vua chư hầu của nhà Hạ, cháu
sáu đời của Chuyên Húc. Do có công trong việc giúp vua Đại Vũ trị thủy nên được
cấp đất và lấy tên của ông đặt tên nước được phong thưởng là Côn Ngô (xem Sử
Ký Tư Mã Thiên, mục Sở Thế Gia). Đây cũng là nơi các vua chúa
đi tuần du và nghỉ lại.
- ngự túc 御宿: vua nghỉ lại đêm, vua nghỉ ngơi....
- uy di (dĩ) 逶迤: quanh co, uốn khúc, quanh quẩn, ngoằn ngoèo, lượn quanh, từng
trải...
- Tử Các, Mỹ Bi 紫閣 , 渼陂: vùng Tử Các và con sông Mỹ Bi ở Thiểm Tây, T.H.
- phong âm 峰陰: ngọn núi cao ở phía bắc (Ví dụ: "sơn âm"山陰: phía bắc của núi " Hoài
âm": 淮陰: phía nam sông Hoài). Nghĩa khác: bóng ngọn
núi cao bao trùm...
-
đạo 稻:
loại lúa nước, lúa gié mọc trong ruộng láu nhiều nước.
- lạp 粒: hạt lúa, hạt gạo.
- bích ngô 碧梧: cây ngô đồng có lá màu xanh biếc. Theo sử sách TH, thời
thượng cổ, khi vua Hoàng Đế lên ngôi có chim phượng hoàng đến ở luôn đến
già trên cây ngô đồng.
- thê lão 栖老: chim đậu đến già, nghỉ ngơi đến già lão.
- thập thúy 拾翠; thu nhặt, nhặt nhạnh lông con chim phỉ thúy (tức chim trả
có bộ lông cánh óng ả rất đẹp)
- tiên lữ 仙侶: bạn người thần tiên. Cũng có nghĩa là bạn già có tuổi tác.
Sách Hậu Hán thư bên TH có kể chuyện Quách Thái và Lý Ưng cùng nhau chèo thuyền
chơi sông, ở xa xa trông như các bậc thần tiên. Đỗ Phủ nhắc lại việc mình cùng
bạn Sầm Than có lần đi dạo chơi trên sông.
- thái bút 彩筆: bút lông có sợi bằng tơ màu sặc sỡ. Đây chỉ văn thơ đẹp đẽ
rực rỡ được ngòi bút sáng tác. ( thái: khen ngợi, thưởng, tia sáng, rực rỡ, sặc
sỡ...)
- can khí tượng 干氣象: dự vào hàng có phong cách.
- khổ đê thùy 苦低垂: cúi rủ xuống với nỗi cay đắng, khổ sở.....
Saigon, 9/2004
(lần đến: Đỗ Phủ: Mộng Lý Bạch 1 và 2, Xuân nhật ức Lý Bạch)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét