Thứ Tư, 18 tháng 8, 2021

Nguyễn Du - Thanh Hiên Thi Tập Bài 29, 30, 31

 


Nguyễn Du - THANH HIÊN THI TẬP Bài 29, 30, 31
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 29:
 
ỨC GIA HUYNH                                                     
憶家兄

Lục Tháp thành nam hệ nhất quan,                             六塔城南繫一官
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.                               
海雲夜渡石巑岏
Cùng tưu lam chướng tam niên thú,                           
窮陬嵐瘴三年戍
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.                               
故國煙花二月寒
Nhất biệt bất tri hà xứ trú?                                           
一別不知何處住
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.                        
重逢當作再生看
Hải thiên mang diểu thiên dư lý,                                  
海天茫渺千餘里
Thần phách tương cầu mộng diệc nan!                       
神魄相求夢亦難
Nguyễn Du                                                                
   


Dịch nghĩa:

Một chức quan đã trói buộc (anh) ở thành Lục Tháp phía nam. Vượt qua đèo Hải Vân ban đêm đá núi nhấp nhô lởm chởm. Ba năm ròng (anh) đồn trú nơi xó cùng hẻo lánh khí núi độc hại. Tiết tháng hai trời lạnh giá (chắc hẳn anh nhớ) quê nhà hoa khói tỏa dâng. Một lần  chia tay, chẳng hay biết (anh) ở nơi chốn nào? Việc gặp nhau chắc phải đến kiếp sau! Biển cả và bầu trời rộng lớn xa xăm hơn ngàn dặm. Khó làm sao để hồn và phách tìm nhau trong giấc mộng!


Tạm chuyển lục bát:

NHỚ ANH

Thành nam Lục Tháp chức quan,
Nhấp nhô đêm vượt đá tràn Hải Vân.
Xó cùng khí chướng ba năm,
Tháng hai hoa khói lạnh giăng quê nhà.
Chốn nào từ độ chia xa?
Kiếp sau chắc sẽ được là thấy nhau.
Biển trời ngàn dặm rộng sao
Khó tìm trong mộng cùng nhau phách hồn!


Chú thích:

** Bài thơ này Tố Như làm khi nhớ đến người anh là Nguyễn Nễ, hơn ông 5 tuổi từng làm quan cho nhà Lê. Khi Quang Trung lên ngôi năm 1789, có người đề cử, ông ra làm quan với triều Tây Sơn được cử làm phó sứ đi tuế cống nhà Thanh,Trung Hoa. Về nước, Nguyễn Nễ được phong Đông Các Đại Học Sĩ tước Nghi Thành Hầu. Năm 1794 thăng Tả Phụng Nghi Bộ Binh vào thành Quy Nhơn làm Hiệp Tán Nhung Vụ. Thành Quy Nhơn có 5 cửa và sáu tháp canh nên gọi là thành Lục Tháp hay còn gọi là thành Hoàng Đế khi Nguyễn Nhạc xưng Trung ương Hoàng Đế tại nơi đây.

- hệ 繫: trói buộc, liên hệ, ràng buộc.
- toàn ngoan 巑岏: đá núi nhấp nhô, lởm chởm.
- tưu 陬: xó cùng, nơi hẻo lánh.
- mang diễu 茫渺: mênh mông và xa thẳm.
- thần phách 神魄: chỉ phần tinh thần làm chủ mọi hành vi của con người.
 
Bài 30:

 
KÝ MỘNG                                                   記夢

Thệ thuỷ nhật dạ lưu,                                  
逝水日夜流
Du tử hành vị quy.                                       
遊子行未歸
Kinh niên bất tương kiến,                             
經年不相見
Hà dĩ úy tương ti (tư).                                 
何以慰相思
Mộng trung phân minh kiến,                       
夢中分明見
Tầm ngã giang chi mi.                                 
尋我江之湄
Nhan sắc thị trù tích,                                   
顏色是疇昔
Y sức đa sâm si.                                          
衣飭多參差
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,                             
始言苦病患
Kế ngôn cửu biệt ly.                                     
繼言久別離
Đái khấp bất chung ngữ,                              
帶泣不終語
Phảng phất như cách duy.                           
彷彿如隔帷
Bình sinh bất thức lộ,                                   
平生不識路
Mộng hồn hoàn thị phi?                               
夢魂還是非
Điệp sơn đa hổ ti,                                         
疊山多虎虒
Lam thuỷ đa giao ly.                                   
藍水多蛟螭
Đạo lộ hiểm thả ác,                                     
道路險且惡
Nhược chất tương hà y?                             
弱質將何依
Mộng lai cô đăng thanh,                             
夢來孤燈清
Mộng khứ hàn phong xuy.                          
夢去寒風吹
Mỹ nhân bất tương kiến,                              
美人不相見
Nhu tình loạn như ty.                                   
柔情亂如絲
Không ốc lậu tà nguyệt,                               
空屋漏斜月
Chiếu ngã đan thường y.                             
照我單裳衣
Nguyễn Du                                              
        


Dịch nghĩa:

Suốt ngày đêm, nước chảy đi không trở lại. Người đi xa cũng chưa quay trở về. Đã nhiều năm không hề gặp nhau; làm thế nào để khuây khỏa nỗi nhung nhớ đây? Trong giấc mộng rõ ràng thấy tìm ta nơi bến sông. Vẻ mặt vẫn như xưa; quần áo và trang sức lôi thôi rối nhàu. Thoạt đầu kể nỗi khổ vì bệnh đau. Tiếp theo nói về nỗi chia xa lâu ngày. Khóc sụt sùi không nói hết được. Thấy thấp thoáng như chia cách bởi bức màn. Vốn trong đời không biết về đường sá; mộng và hồn hư thực, có không chẳng rõ. Núi Tam Điệp nhiều hổ, lắm beo, còn dòng sông Lam nhiều thuồng luồng, lắm rồng ! Con đường đi hung hiểm, khó khăn mà tấm thân lại yếu đuối làm sao cậy nhờ cùng. Lúc mộng đến chong đèn lên lẻ loi một mình; khi mộng đi, cơn gió thổi lạnh lùng. Người đẹp không trông thấy nhau, tình ta yếu mềm rối nhàu như tơ! Nơi góc nhà vắng vẻ, trống trải ánh trăng mờ soi chiếu ta với quần áo đơn sơ, tầm thường!

Tạm chuyển lục bát:

GHI LẠI GIẤC MỘNG

Chảy xuôi dòng nước đêm ngày
Người đi xa mãi chưa quay trở về.
Bao năm gặp mặt chẳng hề,
Niềm mong nỗi nhớ lấy gì làm khuây!
Rõ ràng trong giấc mộng vầy,
 Bờ sông cỏ nước rậm dày tìm ta.
Vẻ người xưa trước vẫn là,
Điểm trang, quần áo xem ra rối nhàu.
Thoạt đầu kể khổ bệnh đau,
Nỗi niềm xa cách bấy lâu tiếp lời.
Nói không hết, chỉ sụt sùi,
Chừng như thấp thoáng khơi vơi cách màn.
Vốn không biết được đâu đàng!
Thật hư, phải trái hoang mang mộng hồn.
Cọp beo Tam Điệp lắm con,
Nhiều rồng cùng với thuồng luồng dòng Lam.
Đường đi ác hiểm vô vàng,
Làm sao nhờ cậy tấm thân yếu mềm!
Lẻ loi mộng đến chong đèn,
Mộng đi gió thổi cài thêm lạnh vào.
Chẳng cùng người đẹp thấy nhau,
Tình ta mềm yếu rối nhàu như tơ!
Góc nhà trống vắng trăng mờ,
Soi ta quần áo đơn sơ tầm thường.

Chú thích:

** Đây là bài thơ làm để tưởng nhớ người vợ đã mất (là em gái của nhà nho Đoàn Nguyễn Tuấn) khi về quê nhà ở Hà Tĩnh với dòng sông Lam nằm mộng thấy người vợ xinh đẹp xưa.

- thệ thủy 逝水: nước chảy đi mãi không trở lại.
- kinh niên 經年: trải qua nhiều năm.
- úy 慰: an ủi, vỗ về để cho lòng được khuây khỏa.

- mi  湄: bờ nước ,bờ sông có cỏ rậm rạp.
- trù tích 疇昔: ngày xưa, trước đây.
- y sức 衣飭: quần áo và trang điểm.
- sâm si 參差: nhấp nhô, so le, lôi thôi.
- đái khấp 帶泣: khóc tỉ tê, khóc sụt sùi.
- duy 帷: màn che, đồ để vây che lại.
- thị phi 是非: đúng sai, phải trái, hư thực.
- ty 虎: con beo hoặc loài tương tự loài hổ.
- giao 蛟: con thuồng luồng, còn có tên là giao long hoặc có khi dùng chỉ con cá mập lớn.
- ly 螭: loài rồng màu vàng không có sừng (giao ly: đều chỉ chung loài thủy quái hung hãn).
- nhược chất 弱質: thể chất yếu đuối, suy nhược.
- nhu tình 柔情: tình cảm yếu đuối.
- ốc lậu 屋漏: góc nhà, xó nhà.

 

Bài 31:
 
MI TRUNG MẠN HỨNG                                   
縻中漫興

Chung Tử viên cầm tháo nam âm,                         
鐘子援琴操南音
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.                     
莊錫病中猶越吟
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,                                 
四海風塵家國淚
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.                             
十旬牢獄死生心
Bình Chương di hận hà thì liễu,                              
平章遺恨何時了
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.                            
孤竹高風不可尋
Ngã hữu thốn tâm vô ngữ dữ,                                
我有寸心無與語
Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm.                       
鴻山山下桂江深
Nguyễn Du                                                           
   

Dịch nghĩa:

Chung Tử kéo đàn theo điệu phương nam ; Trang Tích lúc ốm đau vẫn ngâm nga tiếng Việt. Khắp bốn biển gió bụi nổi lên khiến lệ trào dâng về chuyện nước nhà. Mười tuần nơi chốn lao tù, chuyện sống chết, khiến phải bận lòng. Bao giờ hận Bình Chương mới hết đây! Không thể tìm thấy vẻ thanh cao của nước Cô Trúc. Ta có một tấc lòng không cùng ai để tỏ lời. Bên dưới chân núi Hồng, Quế Giang vẫn là một dòng sông sâu thẳm. 

 
Tạm chuyển lục bát:

CẢM HỨNG TRONG CHỖ GIAM GIỮ

Điệu nam Chung Tử kéo đàn,
Ốm đau tiếng Việt họ Trang ngâm ào.
Nước nhà gió bụi lệ trào,
Mười tuần sống chết ngục lao bận lòng!
 Bình Chương hận vẫn chưa xong,
Tìm đâu Cô Trúc vẹn lòng thanh cao.
Tấc lòng ta tỏ ai nào?
Quế Giang dưới núi Hồng sâu lắm kìa!

Chú thích:

** Bài thơ này đề cập việc Nguyễn Du dự định vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh vào năm Bính Thìn (1796) nhưng bại lộ và bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Thận giam giữ. Nhờ Nguyễn Nễ  quen thân với tướng Tây Sơn và một phần Nguyễn Thận vốn quý tài năng của Nguyễn Du nên ông được thả ra.
- mi 縻: vòng cổ trâu bò, sự trói buộc, nơi giam giữ. 
- Chung Tử 鐘子: tức Chung Nghi người nước Sở bị quân Tần bắt. Lúc gảy đàn, họ Chung chỉ đàn những bài hát phương Nam của nước Sở. Người Tần cảm phục và khen cho lòng thương nhớ quê hương của Chung Nghi.
- Trang Tích 莊錫: người nước Việt (của Việt Vương Câu Tiễn,TH) sống và làm quan bên nước Sở. Khi ốm đau thường ngân nga tiếng Việt để tỏ lòng thương nhớ quê nhà.
- Bình Chương 平章: Trương Thế Kiệt tướng giỏi nhà Tống,TH giúp Đế Bính chống Nguyên thất bại lên thuyền chạy xuống đến núi Bình Chương bị bão làm đắm thuyền. Nhà Tống mất sau đó vào tay nhà Nguyên của quân Mông Cổ. Còn Nguyễn Du ôm mối hận mất nước vào tay Tây Sơn như Trương Thế Kiệt.
- Cô Trúc 孤竹: nhà Ân (TH) mất về tay Chu Vũ Vương . Bá Di, Thúc Tề con vua Cô Trúc, một nước nhỏ là chư hầu nhà Ân không chịu phục lên ẩn lánh ở núi Thú Dương ăn rau để qua ngày, thề không ăn thóc nhà Chu. Cả hai bị chết đói ở núi này.     

(lần đến: Bài 32, 33, 34/ THTT) 

Dương Anh Sơn         

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét