Hoàng Mai kiều thượng,
tịch dương hồng,
黃梅橋上夕陽紅
Hoàng Mai kiều hạ, thuỷ lưu đông.
黃梅橋下水流東
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại,
元氣浮沉滄海外
Tình lam thôn thổ loạn lưu trung.
晴嵐吞吐亂流中
Đoản soa ngư chẩm cô chu nguyệt,
短蓑漁枕孤舟月
Trường địch đồng xuy cổ kính phong.
長笛童吹古徑風
Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến,
大地文章隨處見
Quân tâm hà sự thái thông thông.
君心何事太匆匆
Nguyễn Du
阮 攸
Dịch nghĩa:
Tạm chuyển lục bát:
NGẮM CẢNH CHIỀU Ở CẦU HOÀNG MAI
Cầu Hoàng Mai ửng chiều hồng,
Dưới cầu nước chảy xuôi dòng về đông.
Ngoài khơi chìm nổi hơi trong,
Tạnh trời khí núi giữa sông rối bời.
Thuyền trăng, chài gối áo tơi,
Đường mòn bé thổi gió vời sáo vang.
Ngắm bao vẻ đẹp đất bằng,
Vội chi lòng bạn, việc vàng nào đâu!
Chú thích:
- thiếu 眺: ngắm từ xa, lườm mắt.
- tịch dương 夕陽: lúc mặt trời lặn, chiều tối.
- nguyên khí 元氣: khí trong suốt, tinh khí của người ta, hơi nước đầu tiên...
- tình lam 晴嵐: khí của núi rừng tỏa ra khi trời tạnh mưa.
- thôn 吞: nuốt vào, chiếm (nuốt) nước khác.
- thổ 吐: nhổ ra, thôn thổ: nửa vời, lửng lơ, chập chờn.
- đoản soa 短蓑: áo tơi làm bằng rơm rạ kết lại để che mưa của thời xưa,loại ngắn che phần thân trên
- ngư 漁: bắt cá, chiếm đoạt, người làm việc đánh bắt, kẻ chài lưới.
- đại địa 大地: đất bằng rộng lớn, đất trải dài rộng khắp.
- văn chương 文章: văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Chỉ những điều sáng đẹp, hoặc cảnh đẹp. Cũng chỉ văn thơ chất chứa điều hay lẽ phải mang những điều tốt đẹp.
- thái thông thông 太匆匆: quá đỗi vội vàng.
Bài 27:
DAO VỌNG CÀN HẢI TỪ
遙望乾海祠
Mang mang hải thuỷ tiếp thiên xu,
茫茫海水接天樞
Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu (châu).
隱約孤祠出小洲
Cổ mộc hàn liên phù chử mộ,
古木寒連鳧渚暮
Tình yên thanh dẫn hải môn thu.
晴煙青引海門秋
Hào thiên tướng tướng đan tâm tận,
號天相將丹心盡
Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô.
撫地瓊崖塊肉無
Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái,
笑爾明妃長出塞
Tỳ bà bồi tửu khuyến Thiền Vu.
琵琶杯酒勸單于
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Tạm chuyển lục bát:
TỪ XA NHÌN ĐỀN CÀN HẢI
Mênh
mông biển nối chân trời,
Đền nghèo khuất giấu bãi bồi lẻ loi.
Cây chiều nối bãi vịt trời,
Biển thu mưa tạnh cửa khơi khói tràn.
Hết lòng, các tướng kêu than,
Quỳnh Nhai dòng họ vùi tan còn gì !
Nực cười ra ải Minh phi,
Nghe lời chuốc rượu đàn tỳ Thiền Vu.
Chú thích:
- tiếu nhĩ 笑爾: nực cười thay ( nhĩ
: chữ dứt câu...)
- Minh Phi 明妃: tức là Vương Chiêu Quân王昭君, còn gọi là Minh Quân 明君 vốn là cung nhân của Hán Nguyên Đế. Theo sách Hậu Hán Thư ,Chiêu Quân là người có sắc đẹp "chim sa cá lặn" được tiến cung làm phi tần không tên tuổi trong cung của Hán Nguyên Đế vì không có ai cất nhắc tiến cử nên phải chịu ở trong bóng tối của hậu cung. Khi Thiền Vu Hung Nô (còn gọi là Mông Cổ) tên là Hồ Hàn Tà đến Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán và muốn làm con rể vua Hán. Nguyên Đế vì kế sách ngoại giao nên chuẩn thuận cho năm cung nữ trong nội cung, trong đó có Vương Chiêu Quân. Chiêu Quân vào làm cung nữ đã lâu nhưng không biết lo lót nên không được tiến cử để diện kiến nhà vua, trong lòng cũng có chút oán hận số phận. Khi có tin chọn người thay công chúa làm vợ Thiền vu, Chiêu Quân tự tiến cử mình. Ngày lên đường sang Hung Nô cùng Hồ Hàn Tà, Chiêu Quân vào bái kiến và từ biệt. Nguyên Đế lần đầu gặp Chiêu Quân với nhan sắc mặn mà, "Chim sa cá lặn". Nhà vua muốn giữ lại nhưng không kịp nữa và sợ thất hứa với Thiến Vu sẽ gây ra chiến tranh!
Chiêu Quân qua
vùng biên tái về Hung Nô làm vợ Hồ Hàn Tà, được tôn hiệu là Yên Chi (閼氏) là tên hiệu các
bà vợ Thiền Vu. Chiêu Quân ở xứ người thường rất nhớ nhà và thường đàn hát, trong đó có làm bài hát "Xuất tái khúc"......
- khuyến 勸: khuyên nhủ, dùng
lời nhẹ nhàng để khuyên gắng, mời gọi, khích lệ...
- Thiền Vu 單于: người cai trị cao nhất của các bộ tộc Hung Nô hay còn gọi là Mông Cổ nằm trải dài các cao nguyên và đồng cỏ tây bắc Trung Hoa từ Tân Cương sang các vùng phía tây. Về sau Thiền Vu cũng dùng để chỉ các thân vương với vua Mông Cổ. Người Hán dùng chữ Thiền Vu để nói về vùng đất của các bộ tộc này.
GIANG ĐÌNH HỮU CẢM 江亭有感
Ức tích ngô ông tạ lão thì, 憶昔吾翁謝老時
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang my. 飄飄蒲駟此江湄
Tiên chu kích thuỷ thần long đẩu, 仙舟激水神龍斗
Bảo cái phù không thụy hạc phi. 寶蓋浮空瑞鶴飛
Nhất tự y thường vô mịch xứ, 一自衣裳無覓處
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi. 兩堤煙草不勝悲
Bách niên đa thiểu thương tâm sự, 百年多少傷心事
Cận nhật Trường An đại dĩ phi. 近日長安大已非
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Tạm chuyển lục bát:
CẢM XÚC Ở BẾN GIANG ĐÌNH
Nhớ khi cáo lão cha về,
Nhẹ nhàng xe ngựa đưa kề bờ sông,
Thuyền tiên lướt nước như rồng,
Hạc bay, lọng quí trên không báo lành.
Từ khi xiêm áo vắng tanh,
Đôi bờ đê khói cỏ đành sầu dâng.
Trăm năm nhiều chuyện thương tâm,
Trường An khác lắm bội phần gần đây!
Chú thích:
- bất thăng bi 不勝悲: nỗi sầu đau
không nguôi, nỗi sầu không xiết ....
- đại dĩ phi 大已非: sự đổi khác, sự
khác biệt lớn lao.
- Trường An 長安: tên gọi thành Thăng Long hay Long Thành là kinh đô của các triều Lý, Trần , Hậu Lê. Các nhà nho nước ta xưa kia chịu ảnh hưởng và sùng tín văn hóa Trung Hoa nhất là của thời nhà Hán và nhà Đường nên đã dùng từ Trường An để gọi kinh đô Thăng Long... . (Trường An: kinh đô đầu tiên của nhà Hán do Lưu Bang tức Hán Cao tổ của Trung Hoa xây dựng. Đây là nơi đóng đô của mười ba triều đại Trung Hoa nằm một vùng rộng lớn của Tây An phía tây bắc Bắc Kinh. Các kinh đô về sau gồm Tây An, Lạc Dương, Nam Kinh, Bắc Kinh).
(lần đến: Bài 29, 30, 31/THTT)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét