Thứ Hai, 20 tháng 6, 2022

Thanh Hiên Thi Tập - Bài 61, 62

 


THANH HIÊN THI TẬP - Bài 61, 62
Thầy Dương Anh Sơn 

BƯỚC ĐẦU RA LÀM QUAN NHÀ NGUYỄN Ở BẮC HÀ (1802-1804 /Từ bài 61 đến bài 78), (18 bài)

Bài 61

KÝ HỮU (Kỳ nhị )                                                                                寄 友 (其 二)

 Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh,                                                  鴻山山月一輪明
Thiên lý Trường An thử dạ tình.                                                            千里長安此夜情
Thái phác bất toàn chân diện mục,                                                        太璞不全眞面目
Nhất châu hà sự tiểu công danh.                                                            一州何事小功名
Hữu sinh bất đái công hầu cốt,                                                              有生不帶公侯骨
Vô tử chung tầm thỉ lộc minh.                                                                無死終尋豕鹿盟
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả,                                                              羨殺北窗高臥者
Bình cư vô sự đáo hư linh.                                                                      平居無事到虛靈
Nguyễn Du                                                                                            阮 攸   
 
Dịch nghĩa:

Trên núi Hồng, vầng trăng sáng tròn đầy. Nơi Trường An ngàn dặm xa xôi, với những tình cảm dâng trào trong đêm nay. Viên ngọc còn nguyên sơ, chưa mài gọt không giữ được gương mặt đích thực của mình. Cớ gì vì chút công danh nhỏ bé ở một châu?(c.1-4). Vốn sinh ra không mang dáng dấp của một kẻ (chức tước) công hầu. Nếu mà không chết sẽ tìm làm bạn với hươu nai. Mong muốn như ai kia nằm cao nơi cửa sổ phía bắc một cách bình yên không bận bịu việc gì để đến với cõi sâu xa kỳ diệu (c. 5-8).

Tạm chuyển lục bát:

GỬI BẠN
Hồng Sơn trăng sáng tròn đầy,
Trường An ngàn dặm đêm nay bao tình.
Ngọc nguyên khó giữ mặt mình,
Công danh nho nhỏ sao đành một châu.
Sinh ra chẳng cốt công hầu,
Nếu mà chưa chết bạn bầu hươu nai.
Mong nằm cửa bắc như ai,
Sống yên chẳng bận miệt mài sâu xa.


Chú thích:
- Trường An 長安 : các cụ xưa theo cách gọi của người Trung Hoa đời Tống, đời Đường gọi kinh đô Thăng Long là Trường An.
- thái phác 太璞 : ngọc còn nguyên đục đẽo từ đá ra chưa được mài dũa. Nhan Xúc thời Chiến Quốc được vua Tề mời gặp để trọng dụng nhưng từ chối sợ rằng mình ví như viên ngọc lấy từ núi ra sẽ không giữ được sự nguyên sơ, vẹn toàn vốn có của nó.
- chân diện mục 眞 面 目 : chữ nhà Phật chỉ gương mặt đích thật của bản ngã (Bản lai diện mục) tức chân tánh và thấy được chân tánh tức là giác ngộ lẽ đạo
- công hầu 公 侯 : hai tước đứng đầu trong năm tước được phong (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam). Đây chỉ chức quan Tri huyện Phù Dung mà Nguyễn Du đảm nhận khi làm quan với nhà Nguyễn thuộc phủ Khoái Châu, trấn  Sơn Nam (Hưng Yên).
- bắc song cao ngọa 北 窗 高 臥 : nằm cao ở cửa bắc : hình tượng chỉ thái độ nhàn nhã của các ẩn sĩ lánh xa việc đời mà điển hình là Đào Tiềm đời Tấn bên Trung Hoa với việc treo ấn từ quan về ở ẩn.Ông thường nói :" Tiết tháng năm ,tháng sáu nằm dưới cửa sổ phía bắc đón gió mát thoảng đến coi mình như người đời Hy Hoàng !" ( Hy Hoàng : cách nói của người Trung Hoa về đời thái cổ xa xưa của thuở thanh bình).
- hư linh 虛 靈 : cõi sâu xa, sự biến ảo, kỳ diệu.


Bài 62: 


SƠ NGUYỆT                                                                                   初月

 

Hấp đắc dương quang tài thướng thiên,                                           吸得陽光纔上天
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.                                                                初三初四未團圓
Thường Nga trang kính vi khai hạp,                                                嫦娥妝鏡微開匣
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền.                                              壯士彎弓不上弦
Thiên lý quan sơn vô cải sắc,                                                           千里關山無改色
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên.                                                  一庭霜露共愁眠
Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ,                                                         徘徊正憶鴻山夜
Khước tại La Phù giang thuỷ biên.                                                  卻在羅浮江水邊
Nguyễn Du                                                                                      阮 攸   
 

Tạm chuyển lục bát 

 

TRĂNG THUỞ ĐẦU

 

Ánh dương vừa hé hút vào,

Mồng ba, mồng bốn chưa sao tròn là.

Gương Hằng chưa mở hộp ra!

Giương cung tráng sĩ không tra dây rồi.

Sắc màu ngàn dặm không dời,

Một sân sương móc ngủ vùi sầu chung.

Nhớ đêm Hồng Lĩnh vấn vương,

Giờ lui về ở ven sông La Phù.


Dịch nghĩa


Ánh dương vừa mới nhú lên đã được (mặt trăng) hút vào. Mồng ba, mồng bốn (trăng) vẫn chưa tròn đầy. Chị Hằng Nga vẫn chưa mở hộp trang điểm ra. Chàng tráng sĩ giương cung lên mà không tra dây cung. Chốn ải non ngàn dặm xa xôi, (trăng) vẫn không hề thay màu đổi sắc. Một sân sương móc ta (và vầng trăng) vùi ngủ với nỗi sầu buồn. Lòng còn vương vấn bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dãy núi Hồng Lĩnh mà giờ đây đã lui về dòng sông La Phù rồi!


Chú thích


- Sơ nguyệt 初月trăng non, trăng mới nhú ban đầu. Đây là mùa trăng đầu tiên của Nguyễn Du khi làm quan với nhà Nguyễn với chức danh Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam có sông La Phù chảy qua.

- đoàn viên 團圓họp mặt trọn vẹn đầy đủ. Đây chỉ sự tròn trịa, đầy đặn của vầng trăng khi đến ngày rằm mỗi tháng.

- trang kính 妝鏡kính dùng để trang điểm.

- lạp hộp chứa đồ loại nhỏ.

- ;oan cung 彎弓giương cung để bắn.

- quan sơn 關山quan ải và núi non, chỉ nơi xa xôi hiểm trở.

- cải thay đổi, biến đổi.

- bồi hồi 徘徊vương vấn, quẩn quanh không dứt ra được.

- khước lui về, bỏ đi, từ chối, lại lần nữa.


Dương Anh Sơn

(Lần đến: Thanh Hiên Thi Tập / Bài 63, 64)  


                                                                                                    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét