THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 63, 64
Thầy Dương Anh Sơn
BƯỚC ĐẦU RA LÀM QUAN NHÀ NGUYỄN Ở BẮC HÀ (1802-1804 /Từ bài 61 đến bài 78), (18 bài)
Bài 63
LA PHÙ GIANG THỦY CÁC ĐỘC TỌA 羅浮江水閣獨坐
Thủy các các hạ, giang thuỷ thâm, 水閣閣下江水深
Thuỷ các các thượng, nhân trầm ngâm. 水閣閣上人沉吟
Du du vân ảnh biến thần tịch, 悠悠雲影變晨夕
Cổn cổn lãng hoa phù cổ câm (kim). 滾滾浪花浮古今
Trần thế bách niên khai nhãn mộng, 塵世百年開眼夢
Hồng Sơn thiên lý ỷ lan tâm. 鴻山千里倚欄心
Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ, 徘徊對影獨無語
Bạch phát sổ hành thuỳ ngã khâm. 白髮數莖垂我襟
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Bên dưới thủy các dòng sông sâu thẳm ; bên trên thủy các , người ngồi trầm ngâm đắm vào những suy nghĩ. Bóng mây xa xôi dần thay đổi lúc sáng sớm và khi chiều tối. Nước chảy cuồn cuộn với những bọt sóng như cuốn trôi kim cổ (c.1-4). Trăm năm trong cuộc đời khi mở mắt ra chỉ là giấc mộng. Tựa vào lan can, lòng hướng về non Hồng ngàn dặm xa xôi. Một mình lặng im bâng khuâng ngắm bóng mình. Mấy cọng tóc bạc buông xuống vạt áo của ta (c.5-8).
Tạm chuyển lục bát:
NGỒI THỦY CÁC MỘT MÌNH Ở SÔNG LA PHÙ
Dưới này thủy các sông sâu,
Người trên thủy các đắm vào trầm ngâm.
Mây xa, sớm tối đổi dần,
Xưa nay: cuồn cuộn sóng vần cuốn trôi.
Trăm năm mắt mở mộng đời,
Tựa hiên ngàn dặm nhớ nơi non Hồng.
Lặng im nhìn bóng bâng khuâng,
Áo ta tóc bạc rủ buông mấy hàng.
Chú thích:
- thủy các 水 閣: gác lầu làm trên mặt nước sông hồ để ngồi thưởng ngoạn.
- trầm ngâm 沉 吟: chìm đắm vào dòng suy nghĩ chưa dứt ra được.
- cổn cổn 滾 滾 nước chảy cuồn cuộn, nước chảy xiết.
- lãng hoa 浪 花: bọt sóng do nước chảy mạnh tạo ra.
- sổ hành 數 莖: mấy cọng, mấy hàng.
- khâm 襟: vạt áo.
Bài 64
NGẪU HỨNG (Kỳ nhất) 偶 興(其一)
Sơ canh cổ giác, ngũ canh kê, 初更鼓角五更雞
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê. 終夜徘徊思轉迷
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố, 明月滿天何故故
Tây phong xuy ngã chính thê thê. 西風吹我正凄凄
Thương tàn vật tính bi phù hĩnh, 愓殘物性悲鳧脛
Khắc lạc thiên chân thất mã đề. 刻雒天真失馬蹄
Nhược ngộ sơn trung my lộc hữu, 若遇山中糜鹿友
Yên hà cựu thoại bất kham đề. 煙霞舊話不堪提
Nguyễn Du 阮 攸
Dịch nghĩa:
Đầu canh một ,nghe tiếng trống và tiếng tù và, qua canh năm (nghe) có tiếng gà gáy. Cả đêm cứ nghĩ quanh quẩn với những điều mơ hồ, không rõ ràng. Tại sao vầng trăng lại sáng tỏ đầy trời như thế? Gió từ phía tây thổi làm ta buốt lạnh (c.1-4). Làm cho tổn hại đến cái tánh của vật; thương xót cho cẳng chân loài vịt nước. Ngựa đem đóng móng làm mất đi cái tính trời cho. Nếu có gặp người bạn hươu nai trong núi non, chuyện xưa (về một chốn) có khói giăng, có ráng trời không còn được nhắc nhở nữa khiến ta không chịu nổi (c.5-8).
HỨNG KHỞI TÌNH CỜ (Bài 1)
Cuối gà, sừng trống đầu canh,
Cuối gà, sừng trống đầu canh,
Miên man suốt tối nghĩ quanh rối bời!
Sao trăng sáng mãi đầy trời!?
Thổi ta buốt lạnh tơi bời gió tây.
Hại cho tính vật, thương thay!
Ngựa đem đóng móng mất ngay tính trời.
Hươu nai gặp bạn núi đồi,
Lời xưa khói tỏa ráng trời chẳng kham.
Chú thích :
- cổ giác 鼓 角: trống và tù và (làm bằng sừng trâu) dùng để làm hiệu lệnh trong quân hay để điểm các giấc canh trong đêm.
- bồi hồi 徘 徊: xem C.T bài 62.
- tứ chuyển mê 思 轉 迷: những ý nghĩ mơ hồ không rõ ràng....
- cố cố 故 故: cứ mãi như thế.
- thê thê 凄 凄: buốt lạnh, buồn bã...
- phù hĩnh 鳧 脛: cẳng chân vịt. Sách Trang Tử cho rằng cẳng chân vịt nước ngắn không thể nối cho dài thêm; còn cẳng chân con hạc dài không thể cắt cho ngắn làm mất đi bản tính tự nhiên.
- vật tính 物 性: tính chất, tố tính sẵn có của muôn vật ; bản tính tự nhiên của các loài, của vật chất.
- khắc lạc 刻 雒: trong thiên “mã đề” của sách Trang Tử có viết: “Khắc chi lạc chi” nghĩa khắc vào, quấn vào để đề cập đến bản tính sự vật (thiên chân) do trời ban nếu bị phải thay đổi sẽ trái với bản tính tự nhiên. Ở đây (c. 3+4) Nguyễn Du cảm thấy việc ra làm quan nhà Nguyễn sẽ làm mất đi cái cốt tính yêu thiên nhiên của kẻ thích ở ẩn, không ham muốn bon chen sự đời!
Dương Anh Sơn
(Lần đến: Thanh Hiên Thi Tập / Bài 65, 66)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét