Thứ Năm, 30 tháng 6, 2022

Ức Trai Thi Tập - Nguyễn Trãi - Bài 1, 2, 3

 GIỚI THIỆU

Trân trọng giới thiệu đến quý Thầy Cô, Đồng Môn và Thân Hữu 

Loạt bài của thầy Dương Anh Sơn về 105 bài thơ trong Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi được chuyển sang lục bát.

"Chào BBT,

Tôi sẽ bắt đầu gửi tiếp lần lượt 105 bài thơ trong Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi được chuyển sang lục bát và xuất bản năm 2009 tại Saigon. Lần nay, tôi sẽ hiệu đính và chỉnh sửa những chỗ sai sót cũng như bổ sung thêm cho hoàn chỉnh. 

Việc đưa những tác phẩm cổ điển lên trang mạng của N.H.H.N. nhắm đến một số độc giả hiểu biết và quan tâm đến những giá trị của văn học Việt nam nói riêng và các mảng văn học khác nói chung

Một lần nữa xin cám ơn BBT đã mất nhiều công sức và thì giờ để chỉnh sửa cho phù hợp trước khi cho lên trang mạng."

Trân trọng 

NHHN 

ỨC TRAI THI TẬP (抑 齋 詩 集) - NGUYỄN TRÃI (  廌)

THỜI KỲ LƯU LẠC KHI GIẶC MINH XÂM LƯỢC (Khoảng 1407-1417) - (14 bài)

Bài 1 

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC                           亂後山感作

山在支碑社。元旦退休處。山有凊虛下有透玉陳法螺庵居。玄光亦卓錫于此。

(Sơn tại Chí Hãn xã, Trần Nguyên Đán thoái hưu xứ, sơn hữu Thanh Hư động, hạ hữu Thấu Ngọc kiều. Trần Pháp Loa am cư . Huyền Quang diệc trác tích vu thử) **

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,                                                 家山恰十年,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.                                                  歸來菊半
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,                                               林泉有那堪負,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.                                                        塵土低
Hương lý tài qua như mộng đáo,                                                 到,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).                                         干戈未息幸身全
Hà thời kết ốc vân phong hạ,                                                       時結峰下,
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên                                          烹茶枕石眠。 
Nguyễn Trãi                                                                        阮 廌     

DỊCH NGHĨA:

Một lần rời chốn núi quê nhà vừa đúng mười năm - Về đây, nửa phần cây hoa cúc và tùng đã tan hoang - Suối rừng đã ước hẹn sao đành chịu sự phụ bạc – Cúi đầu xuống đất bụi mà thương cảm cho mình – Xóm làng đi qua cứ ngỡ như đến với giấc mộng – Binh đao loạn lạc chưa hết, may mắn sao thân vẫn còn – Bao giờ mới có thể làm được căn nhà dưới chân núi mây này? Và (bao giờ) mới lấy nước khe suối để pha trà rồi gối trên đá để ngủ?

DỊCH THƠ:       

SAU LOẠN, CẢM TÁC KHI ĐẾN CÔN SƠN

Mười năm rời chốn núi quê,
Về đây tùng, cúc nửa bề tan hoang.
Sao đành lỗi hẹn suối ngàn,
Cúi đầu đất bụi  miên man dạt dào.
Qua làng cứ ngỡ chiêm bao,
Lửa binh chưa dứt may sao thân còn!
Bao giờ nhà dựng dưới non,
Nước khe, trà hãm gối nồng đá mây?!     

CHÚ THÍCH:
** Núi (Côn Sơn) ở Chí Hãn, nơi Trần Nguyên Đán ở khi lui về. Núi có động Thanh Hư. Phía dưới có cầu Thấu Ngọc. Pháp Loa đời Trần dựng am nơi đây. Huyền Quang cũng sừng sững cao vời với chiếc gậy tầm xích chốn này.

- kháp 恰: vừa vặn, vừa đúng, vừa khớp.
tiêu nhiên 翛 然:  tan nát, hư hao.
- hữu ước 有 : đã có hẹn hò.
- na kham phụ 那 堪 負: sao lại chịu được sự phụ bạc, ruồng rẫy.
-  tự liên 自 thương mình xót xa, dạt dào.
- tài qua 纔 過: vừa mới đi qua, đi qua vừa xong..... 
- cấp giản 汲 múc lấy nước khe suối.
- thạch miên 石 眠: giấc ngủ gối trên đá.    

Bài 2  

QUY CÔN SƠN CHÂU TRUNG TÁC                               歸 崑 山 舟 中 作       

Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,                                       十年飄轉嘆蓬萍,
Qui tứ dao dao nhật tự tinh                                                          搖搖日似旌
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,                                                      故里,
Không tương huyết lệ tẩy tiên huỳnh.                                            洗先
Binh dư cân phủ ta nan cấm,                                                       斤斧嗟 禁,
Khách lý giang sơn chỉ thử tình.                                                 江山此情。 
Uất uất thốn hoài vô nại xứ                                                         灪灪懷無處,
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh                                         船窗推枕到天明
Nguyễn Trãi                                                                        阮 廌    

DỊCH NGHĨA:

Mười năm trôi giạt như cỏ bồng, như cánh bèo - Hằng ngày chuyện quay về quê cứ nôn nao lo nghĩ hoài - Biết bao lần tìm về làng xưa bày ra trong hồn mộng – Đèn soi của cha ông chỉ có thể rửa sạch  bằng lệ máu – Sau khi loạn dứt, làm sao ngăn cấm chuyện búa rìu - Ở nơi đất khách chỉ còn tình yêu non nước này - Tấc lòng buồn bực không chốn nào chịu được - Gối nằm bên song cửa thuyền cho đến khi trời sáng      

DỊCH THƠ:  

CẢM TÁC TRÊN THUYỀN VỀ CÔN SƠN

Bèo trôi, bồng giạt mười năm,
Chuyện về lòng cứ, đăm đăm mỗi ngày.
Tìm quê, hồn mộng vẫn bày,
Soi đèn sạch lệ máu này cha ông.
Khó ngăn rìu búa, loạn xong,
Nước non đất khách chỉ còn tình thôi!
Tấc lòng buồn nhớ không nguôi,
Cửa thuyền gối đẩy đến trời sáng lên.    

CHÚ THÍCH:
phiêu chuyển 飄 轉: thay đổi như gió thổi nhiều nơi.
- bồng bình 蓬 萍: cỏ bồng và bèo nổi.
- qui tứ 歸 : lòng lo nghĩ việc quay về nhà.
- dao dao 搖 搖: nôn nao, tinh thần không tự chủ.
- tự tinh  似 旌: giống như cờ bay. Chỉ sự không yên ổn.
- kỷ thác mộng hồn 幾 托 夢 : bao lần bày ra hồn trong giấc mộng. (thác 托: nâng, nhấc, khay bưng đồ, bày ra, trách nhiệm...
- không tương huyết lệ tẩy 空 將 血 淚 : sẽ rửa sạch không còn gì máu của nước mắt, máu của sự đau đớn tột cùng (dân gian: "chảy máu mắt!')
- tiên huỳnh 先 : ánh đèn soi sáng của tiên tổ, cha ông.
- binh dư 兵 : sau cơn binh loạn.
- cân phủ 斤 斧: búa rìu. Chỉ việc những tị hiềm, thù oán v.v… trở thành mối đe dọa, áp lực lên các hoàn cảnh con người.
- uất uất  灪 灪: buồn bực, lo lắng.
- thốn hoài : tấc lòng mong nhớ.
vô nại xứ  無 奈 : không biết làm sao đây, không chịu được, không dứt được.
- thôi chẩm 推 枕: đẩy gối, trằn trọc không ngủ được.
* Bản của Dương Bá Cung (S.Đ.D tr.77) câu 4 dùng chữ “tiên huỳnh 先 熒 ” hợp lý hơn bản do Đào Duy Anh hiệu đính dùng chữ "tiên doanh 先 塋 " có nghĩa là mồ mả cha ông, tổ tiên vì chữ “doanh” không hiệp vần lắm với các câu khác (S.Đ.D, tr 251).    

Bài 3  

THÍNH VŨ                                                                            聽  
 
Tịch mịch u trai lý,                                                                    寂寞幽裹,    
Chung tiêu thính vũ thanh.                                                         終
Tiêu tao kinh khách chẩm,                                                         蕭騷驚客枕,   
Điểm trích sổ tàn canh.                                                              數殘    
Cách trúc xao song mật,                                                            隔竹敲窗密,      
Hòa chung nhập mộng thanh.                                                                       
Ngâm dư hồn bất mị,                                                                餘渾不寐,       
Đoạn tục đáo thiên minh.                                                          斷續到天明 
Nguyễn Trãi                                                                         阮 廌           

DỊCH NGHĨA:         

Trong phòng mờ tối và vắng lặng - Suốt đêm chỉ nghe tiếng mưa – Khách sợ nằm với chiếc gối lòng buồn não nề - Đếm giọt mưa rơi cho đến khi hết canh - Cửa sổ đóng kín khua đập bởi tiếng trúc xa xôi - Tiếng chuông hòa vào giấc mộng trong trẻo nhẹ nhàng – Ngâm thơ xong vẫn không say ngủ được - Trằn trọc cho đến khi trời chớm sáng.

DỊCH THƠ:

NGHE MƯA

Trong phòng mờ tối lặng yên,
Tiếng mưa nghe suốt thâu đêm rì rào.
Não nề khách sợ gối sao!
Giọt mưa đếm mãi đã vào tàn canh.
Trúc khua song kín xa xăm,
Hòa vào giấc mộng chuông ngân trong ngời.
Ngâm xong ngủ chẳng say vời,
Dứt rồi lại tiếp đến trời sáng lên!

CHÚ THÍCH:
- chung tiêu 終 : suốt đêm.
- tiêu tao 蕭 騷: buồn bã, hắt hiu, não nề.
- điểm trích 點 : giọt nước rơi từng giọt.
- sổ  : đếm, tính lượt.
- cách  : xa xôi, ngăn cách, ngăn trở...
- xao 敲: gõ, đập cửa.
- mật  : kề liền, kín đáo, bí mật, rậm rạp.
- mộng thanh 夢 : giấc mộng trong trẻo, nhẹ nhàng.
- hồn 渾: nước vẩn đục, đều, cùng, khắp cả, vỏn vẹn, vẫn còn, hoàn toàn, hồn hậu...
- bất mị 不 寐: không ngủ say được.
- đoạn tục 斷 續: đứt đoạn rồi lại tiếp tục. Chỉ giấc ngủ chập chờn, trằn trọc .
- thiên minh 天 明:  lúc trời rạng sáng, trời chớm sáng ....

(Lần đến: Ư.T.T.T/ Nguyễn Trãi: Bài 4, 5, 6/105 bài)

Dương Anh Sơn                              


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét